Tin tức
on Monday 23-09-2019 9:48am
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Trần Hà Lan Thanh-IVFMD Phú Nhuận
Tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) là một phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm trong đó một tinh trùng được tiêm trực tiếp vào bào tương của một noãn trưởng thành. Rosen và cộng sự (2006) cho thấy thoái hóa là một hiện tượng phổ biến của tất cả các chuyên viên thực hiện ICSI. Van Steirteghem và cộng sự (1993) báo cáo rằng trung bình 10% noãn bị thoái hóa sau ICSI. Sự thoái hóa của noãn bào đặc biệt rõ rệt khi màng bào tương rất dễ vỡ, dẫn đến sự phá vỡ màng đột ngột trong ICSI hay còn gọi là noãn bở. Dấu hiệu quan sát thấy các noãn có màng bào tương dễ vỡ dễ bị thoái hóa là không có hình phễu được tạo ra tại vị trí kim tiêm ICSI. Sự gián đoạn của màng bào tương có thể ảnh hưởng đến thành phần ngoại vi của tế bào chất và khung xương tế bào của noãn, dẫn đến sự xáo trộn trong các vi ống chịu trách nhiệm phân ly nhiễm sắc thể và tống xuất thể cực.
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã tạo ra phôi từ noãn với màng bào tương mỏng yếu và nhóm noãn có tính chất màng bình thường bằng ICSI và so sánh tỉ lệ thụ tinh và tiềm năng phát triển của phôi, tỉ lệ thai khi chuyển phôi nang. Noãn được chia thành ba nhóm: noãn bình thường từ các chu kỳ không có noãn với màng bào tương mỏng manh (nhóm A), noãn với màng bào tương mỏng manh từ chu kỳ chứa ít nhất một noãn có màng bào tương mỏng manh (nhóm B) và chu kỳ chỉ toàn có noãn màng bào tương mỏng manh (nhóm C).
Kết quả thu được là:
- Tỷ lệ thụ tinh ở nhóm C (65,3%) thấp hơn đáng kể (P <0,01) so với nhóm A (84,6%) và B (86,9%)
- Tỷ lệ thoái hóa ở nhóm C (24,2%) là đáng kể (P < 0,01) cao hơn so với những người thuộc nhóm A (0,71%) và B (0,28%)
- Tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ hình thành phôi nang (59,7% so với 67,5%) giữa các nhóm khác nhau
- Ngoài ra, tỷ lệ có thai sau khi chuyển phôi nang ở nhóm C (50,0%) không khác biệt đáng kể so với nhóm A (35,6%) và B (45,8%)
Nguồn: Developmental ability of embryos produced from oocytes with fragile oolemma by intracytoplasmic sperm injection, J Assist Reprod Genet (2016), doi:10.1007/s10815-016-0811-4
Các tin khác cùng chuyên mục:
Lợi ích lâm sàng của thử nghiệm đánh giá phân mảnh dna tinh trùng: khuyến nghị thực tiễn phụ thuộc vào trường hợp lâm sàng - Ngày đăng: 18-09-2019
Ảnh hưởng của độ dày nội mạc tử cung đối với cân nặng của trẻ trong các chu kì chuyển phôi trữ - Ngày đăng: 18-09-2019
Mối tương quan giữa hình thái phôi nang với kết cục điều trị và kết cục chu sinh - Ngày đăng: 18-09-2019
ADN tự do có nguồn gốc từ phôi so với sinh thiết tế bào lá nuôi phôi trong chẩn đoán di truyền lệch bội: tỉ lệ tương đồng và ý nghĩa lâm sàng - Ngày đăng: 18-09-2019
Quan điểm chuyên gia về việc cấy mô buồng trứng để trì hoãn mãn kinh - Ngày đăng: 18-09-2019
Phụ nữ bị viêm gan siêu vi B mãn tính không ảnh hưởng đến kết quả thai khi điều trị IVF ở chu kỳ đầu tiên - Ngày đăng: 16-09-2019
Giảm thai từ song thai thành đơn thai có chọn lọc, giảm nguy cơ sinh non và các biến chứng trong thai kỳ - Ngày đăng: 16-09-2019
Ảnh hưởng của chỉ số khối cơ thể ở phụ nữ đến kết quả thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm: Một nghiên cứu đa trung tâm - Ngày đăng: 16-09-2019
Phân tích NGS trên môi trường nuôi cấy phôi cho thấy sự tồn tại của các miRNA có nguồn gốc ngoài phôi - Ngày đăng: 16-09-2019
Vai trò của hoạt hóa noãn nhân tạo với bệnh nhân có tiền sử thất bại thụ tinh hoàn toàn hoặc thụ tinh kém - Ngày đăng: 16-09-2019
Vẫn còn chênh lệch lương theo giới tính của bác sĩ Nội tiết Sinh sản/Vô sinh - Ngày đăng: 12-09-2019
Ảnh hưởng của hội chứng buồng trứng đa nang lên sức khỏe xương - Ngày đăng: 12-09-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK