Tin tức
on Monday 16-09-2019 7:55am
Danh mục: Tin quốc tế
Bs Lê Long Hồ - Nhóm nghiên cứu sinh non – BV Mỹ Đức
Kỹ thuật giảm thai phát triển từ những năm thập niên 80, nhằm giảm số lượng thai ở những trường hợp đa thai với mục đích giảm các biến chứng thai kỳ, đặc biệt là sinh non. Các nghiên cứu tiến hành giảm song thai xuống đơn thai và so sánh kết cục với song thai còn rất ít.
Nhóm nghiên cứu của Luciana AViera thực hiện một nghiên cứu hồi cứu trên 855 ca song thai. Trong đó, 605 ca tiếp tục theo dõi thai kỳ và 250 ca quyết định giảm thai còn đơn thai. Tuổi thai lúc khảo sát dao động từ 11 đến 15 tuần và chỉ chọn những trường hợp song thai hai nhau, hai ối. Việc chọn lựa thai để giảm dựa vào các thông tin trên siêu âm thai và sinh thiết gai nhau. Vì thế, bệnh nhân được đề nghị sinh thiết gai nhau trước giảm thai.
Về đặc điểm dân số, nhóm giảm thai có vẻ lớn tuổi hơn (37.56 4.67 so với 35.44 6.13, p < 0.01), BMI thấp hơn (23.41 4.77 so với 24.91 5.63, p < 0.01), thai từ thụ tinh ống nghiệm nhiều hơn (63.6% so với 48.8%, p < 0.01), tỷ lệ sinh đủ tháng ở thai kỳ trước đó nhiều hơn (54% so với 35.7%, p < 0.01) và đồng ý sinh thiết gai nhau cũng nhiều (92% so với 37.5%). Tuy nhiên, tiền căn sinh non ở hai nhóm là tương tự nhau.
Về kết cục thai kỳ, nhóm giảm thai so với nhóm song thai thì:
- Tỷ lệ sinh non thấp hơn: 17.7% so với 53.7%, OR = 5.62 (3.67 - 8.61), p < 0.01.
- Tỷ lệ sinh non < 34 tuần thấp hơn: 7% so với 17%, OR = 2.22 (1.20 - 4.11), p < 0.01.
- Tỷ lệ mổ lấy thai thấp hơn: 46.8% so với 79.1%, OR = 5.53 (3.60 - 8.49), p < 0.01.
- Tỷ lệ ối vỡ non thấp hơn: 5.9% so với 19.4%, OR = 3.86 (2.00 - 7.43), p < 0.01.
- Tỷ lệ tiền sản giật thấp hơn: 4.2 so với 16.8%, OR = 3.33 (1.60 - 6.96), p < 0.01.
Nghiên cứu đưa ra kết luận, việc giảm song thai thành đơn thai là một thủ thuật an toàn, giúp giảm được tỷ lệ sinh non và các biến chứng thai kỳ.
Nguồn: Vieira, L. A., Warren, L., Pan, S., Ferrara, L., & Stone, J. L. (2019). Comparing pregnancy outcomes and loss rates in elective twin pregnancy reduction with ongoing twin gestations in a large contemporary cohort. American journal of obstetrics and gynecology.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Ảnh hưởng của chỉ số khối cơ thể ở phụ nữ đến kết quả thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm: Một nghiên cứu đa trung tâm - Ngày đăng: 16-09-2019
Phân tích NGS trên môi trường nuôi cấy phôi cho thấy sự tồn tại của các miRNA có nguồn gốc ngoài phôi - Ngày đăng: 16-09-2019
Vai trò của hoạt hóa noãn nhân tạo với bệnh nhân có tiền sử thất bại thụ tinh hoàn toàn hoặc thụ tinh kém - Ngày đăng: 16-09-2019
Vẫn còn chênh lệch lương theo giới tính của bác sĩ Nội tiết Sinh sản/Vô sinh - Ngày đăng: 12-09-2019
Ảnh hưởng của hội chứng buồng trứng đa nang lên sức khỏe xương - Ngày đăng: 12-09-2019
Kết cục điều trị của bệnh nhân 44-45 tuổi thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 12-09-2019
Khởi phát aspirin liều thấp trước tuần thai 11 có làm giảm tỷ lệ tiền sản giật? - Ngày đăng: 12-09-2019
Mô hình tiên lượng phôi có khả năng phát triển thành phôi nang chất lượng tốt - Ngày đăng: 12-09-2019
Có nên chờ đợi? phôi nang ngày 7 có tỷ lệ euploidy (nguyên bội) thấp nhưng tỷ lệ làm tổ tương tự như phôi nang ngày 5 và ngày 6 - Ngày đăng: 12-09-2019
Hoạt động của ti thể và khung xương tế bào ở hợp tử ba tiền nhân sau khi ICSI - Ngày đăng: 11-09-2019
Đánh giá lại tiêu chuẩn chẩn đoán ADENOMYOSIS trên cộng hưởng từ - Ngày đăng: 11-09-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK