Tin tức
on Monday 16-09-2019 7:55am
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Nguyễn Cao Trí - IVF Vạn Hạnh
Ảnh hưởng của chỉ số khối cơ thể (BMI, body mass index) đến kết quả điều trị của chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) cho đến hiện tại vẫn là một trong những chủ đề gây tranh luận bởi các nhóm nghiên cứu, bao gồm một loạt những công bố kéo dài từ năm 1999 đến 2008, trong đó có một nghiên cứu meta-analysis với dữ liệu lớn của Metwally năm 2008, nhằm minh chứng cho sự độc lập giữa chỉ số BMI và kết quả điều trị IVF. Bên cạnh đó, các công bố về sự ảnh hưởng của BMI cao cũng được giới thiệu rất chi tiết như: Lượng gonadotropin cần sử dụng cao hơn, số lượng noãn thu nhận ít, tăng tỉ lệ hủy chu kỳ, sẩy thai, giảm tỉ lệ thai lâm sàng và trẻ sinh sống. Tính đến tháng 8.2018, chủ đề về BMI và kết quả điều trị IVF vẫn còn nhiều quan điểm khác biệt cụ thể khi trên tạp chí Journal of Assisted Reproduction and Genetics trong cùng một thời điểm có đến 2 công bố về BMI và kết quả điều trị IVF, tuy nhiên kết luận giữa hai nhóm tác giả là rất khác nhau, mặc dù thiết kế thử nghiệm có sự khác biệt đôi chút. Và để làm rõ hơn về chủ đề này, bài nghiên cứu được thực hiện nhằm cung cấp thêm thông tin về mối liên hệ giữa chỉ số cơ thể và kết quả khi thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm (Kudesia et al., 2018).
The role of body weight in fertility. Theo www.everydayhealth.com
Để đánh giá mối liên hệ giữa chỉ số BMI đến kết quả điều trị của một chu kỳ IVF, trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã hồi cứu số liệu và thống kê trên số lượng bệnh nhân rất lớn: 51.198 người, ở 13 trung tâm IVF tại Mỹ trong khoảng thời gian từ năm 2009-2015 và phân chia thành 5 nhóm dựa vào chỉ số BMI, cụ thể, chỉ số BMI < 18.50 kg/m2 (nhẹ cân, nhóm 1), 18.50– 24.99 kg/m2 (bình thường, nhóm 2), 25.00–29.99 kg/m2 (thừa cân, nhóm 3), 30.00–34.99 kg/m2 (béo phì độ I, nhóm 4), 35.00–39.99 kg/m2 (béo phì độ II) và ≥ 40.00 kg/m2 (béo phì độ III), trong đó các đối tượng béo phì độ II và III được gom thành nhóm 5 để thống kê số liệu.
Các số liệu được thu nhận từ chu kỳ IVF tự thân đầu tiên, các kết quả được quan tâm gồm: số chu kỳ bị hủy, số noãn thu được, số phôi và tỉ lệ thai lâm sàng.
Các kết quả chính:
Phụ nữ thừa cân hay béo phì có kết quả điều trị không tốt so với nhóm bình thường. Đầu tiên là số chu kỳ bị hủy, chỉ số Odd tăng đều theo chỉ số BMI (aOR [95%CI] 1.17 [1.08, 1.26] với nhóm thừa cân, 1.28 [1.15, 1.41] với nhóm béo phì độ I và 1.50 [1.33, 1.68] với nhóm béo phì độ II và III, P < 0.001 cho tất cả); số noãn khi kích thích buồng trứng thu được không có sự khác biệt với nhóm thừa cân, nhưng ít hơn với nhóm béo phì độ I (aIRR [95%CI] 0.98 [0.98,0.99] và nhóm béo phì độ II và III 0.93 [0.92,0.94], P < 0.001 cho cả 2 trường hợp); Kết quả về số phôi hữu dụng thể hiện xu hướng giảm theo chiều tăng của chỉ số BMI (aIRR [95%CI] 0.98 [0.97,0.99] với nhóm thừa cân, 0.97 [0.96,0.99] với nhóm béo phì độ I, 0.95 [0.93,0.97] với nhóm béo phì độ II và III, P < 0.01 cho tất cả trường hợp); và tỉ lệ thai lâm sàng cũng tương tự số noãn thu được (aOR [95%CI] 0.89 [0.83,0.95] với nhóm béo phì độ I, 0.86 [0.79,0.93] với nhóm béo phì độ II và III, P < 0.001 cho cả 2 trường hợp).
Kết luận:
Nghiên cứu có nhiều điểm sáng như: thực hiện trên số lượng bệnh nhân lớn với dữ liệu cụ thể, chỉ ra được sự khác biệt rõ ràng về ảnh hưởng của thừa cân và béo phì đến các kết quả điều trị, bên cạnh đó một số hạn chế của nghiên cứu có thể kể đến như số lượng bệnh nhân ở các nhóm không đồng đều, chưa đánh giá được tỉ lệ trẻ sinh sống.
Nguồn tham khảo:
Kudesia, R., Wu, H., Hunter Cohn, K., Tan, L., Lee, J. A., Copperman, A. B., & Yurttas Beim, P. (2018). The effect of female body mass index on in vitro fertilization cycle outcomes: a multi-center analysis. Journal of Assisted Reproduction and Genetics. https://doi.org/10.1007/s10815-018-1290-6
Các tin khác cùng chuyên mục:
Phân tích NGS trên môi trường nuôi cấy phôi cho thấy sự tồn tại của các miRNA có nguồn gốc ngoài phôi - Ngày đăng: 16-09-2019
Vai trò của hoạt hóa noãn nhân tạo với bệnh nhân có tiền sử thất bại thụ tinh hoàn toàn hoặc thụ tinh kém - Ngày đăng: 16-09-2019
Vẫn còn chênh lệch lương theo giới tính của bác sĩ Nội tiết Sinh sản/Vô sinh - Ngày đăng: 12-09-2019
Ảnh hưởng của hội chứng buồng trứng đa nang lên sức khỏe xương - Ngày đăng: 12-09-2019
Kết cục điều trị của bệnh nhân 44-45 tuổi thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 12-09-2019
Khởi phát aspirin liều thấp trước tuần thai 11 có làm giảm tỷ lệ tiền sản giật? - Ngày đăng: 12-09-2019
Mô hình tiên lượng phôi có khả năng phát triển thành phôi nang chất lượng tốt - Ngày đăng: 12-09-2019
Có nên chờ đợi? phôi nang ngày 7 có tỷ lệ euploidy (nguyên bội) thấp nhưng tỷ lệ làm tổ tương tự như phôi nang ngày 5 và ngày 6 - Ngày đăng: 12-09-2019
Hoạt động của ti thể và khung xương tế bào ở hợp tử ba tiền nhân sau khi ICSI - Ngày đăng: 11-09-2019
Đánh giá lại tiêu chuẩn chẩn đoán ADENOMYOSIS trên cộng hưởng từ - Ngày đăng: 11-09-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK