Tin tức
on Wednesday 18-09-2019 7:59am
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Lê Thị Bích Phượng - IVFMD Phú Nhuận
Những năm về trước, nhiều trung tâm IVF đã thực hiện chuyển nhiều hơn 2 phôi để tăng cơ hội mang thai cho bệnh nhân, tuy nhiên điều này tăng nguy cơ mắc các bệnh ảnh hưởng đến sức khoẻ của mẹ và bé. Nhằm giảm những nguy cơ đó, chuyển đơn phôi lựa chọn đã được áp dụng tại một số trung tâm IVF. Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đánh giá và lựa chọn phôi chuyển với tiềm năng cao nhất.
Nuôi cấy phôi đến giai đoạn phôi nang và chuyển phôi chất lượng tốt là chiến lược được sử dụng nhiều nhất để giảm số lượng phôi chuyển. Hệ thống đánh giá xếp loại phôi đầu tiên được mô tả bởi Gardner và cộng sự, theo hệ thống xếp loại này, chất lượng phôi nang được đánh giá dựa trên 3 yếu tố: sự nở rộng của khoang phôi, kích thước và sự nén của các tế bào ICM, sự liên kết và số lượng tế bào lớp lá nuôi. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng có mối tương quan trong việc đánh giá phôi dựa trên 3 đặc điểm này với tỉ lệ làm tổ và tỉ lệ trẻ sinh sống. Tuy nhiên đặc điểm nào là quan trọng nhất trong 3 đặc điểm kể trên với kết cục điều trị của bệnh nhân vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Ngoài ra, chất lượng phôi với kết cục chu sinh cũng chỉ có một ít nghiên cứu quan tâm và kết quả đưa ra cũng không được rõ ràng. Vì vậy, Jennifer B. Bakkensen và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh giá tầm quan trọng của đặc điểm hình thái phôi nang với kết cục điều trị và kết cục chu sinh của bệnh nhân chuyển đơn phôi.
Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu trên 1023 chu kỳ chuyển phôi tươi và 1.222 chu kỳ chuyển phôi trữ thực hiện từ tháng 1/2012 đến tháng 2/2018, chất lượng phôi nang được đánh giá dựa trên hệ thống đánh giá phôi của Gardner. Kết quả nghiên cứu cho thấy ở cả chu kỳ chuyển phôi tươi và trữ, tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ sinh sống có mối tương quan đáng kể với độ nở rộng của khoang phôi, không có sự khác biệt với chất lượng ICM nhưng khi chất lượng TE giảm thì cả 2 tỉ lệ này đều giảm.
Khi so sánh trên kết cục chu sinh, kết quả nghiên cứu cho thấy không có mối tương quan giữa độ nở rộng của khoang phôi với sinh non, thai nhỏ hay lớn hơn so với tuổi thai ở cả 2 chu kỳ chuyển phôi tươi và trữ. Về mối tương quan của chất lượng ICM với kết cục chu sinh, nhóm tác giả chỉ ra rằng trong chu kỳ chuyển phôi trữ, tỉ lệ sinh non giảm khi chất lượng ICM giảm; tuổi thai lúc sinh tương ứng với 3 mức độ A B C là 38,9 tuần; 39,1 tuần và 39,3 tuần (p= 0,005). Tương tự, cân nặng trẻ tăng khi chất lượng ICM giảm trong chu kỳ chuyển phôi trữ, cân nặng là 3420g; 3555g; 3586g tương ứng với 3 mức độ A, B và C. Không có sự khác biệt được quan sát thấy ở chất lượng ICM với việc lớn hay nhỏ so với tuổi thai. Và cuối cùng, không có mối tương quan giữa chất lượng TE với kết cục chu sinh.
Kết quả nghiên cứu cho thấy độ nở rộng của phôi càng tăng và chất lượng TE càng cao giúp tăng tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ trẻ sinh sống. Ngoài ra, nghiên cứu này còn chỉ ra rằng chất lượng ICM có liên quan với sinh non trong chu kỳ chuyển phôi trữ, mặc dù chất lượng ICM cao liên quan đến việc tăng khả năng sinh non, nhưng không có mối liên hệ nào với những kết cục chu sinh khác. Nghiên cứu này cho thấy, việc bệnh nhân mang thai từ những phôi có độ nở rộng thấp, chất lượng ICM và TE không cao không có tương quan với kết cục chu sinh bất lợi.
Nguồn: Association between blastocyst morphology and pregnancy and perinatal outcomes following fresh and cryopreserved embryo transfer. Journal of Assisted Reproduction and Genetics. 10.1007/s10815-019-01580-0
Nuôi cấy phôi đến giai đoạn phôi nang và chuyển phôi chất lượng tốt là chiến lược được sử dụng nhiều nhất để giảm số lượng phôi chuyển. Hệ thống đánh giá xếp loại phôi đầu tiên được mô tả bởi Gardner và cộng sự, theo hệ thống xếp loại này, chất lượng phôi nang được đánh giá dựa trên 3 yếu tố: sự nở rộng của khoang phôi, kích thước và sự nén của các tế bào ICM, sự liên kết và số lượng tế bào lớp lá nuôi. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng có mối tương quan trong việc đánh giá phôi dựa trên 3 đặc điểm này với tỉ lệ làm tổ và tỉ lệ trẻ sinh sống. Tuy nhiên đặc điểm nào là quan trọng nhất trong 3 đặc điểm kể trên với kết cục điều trị của bệnh nhân vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Ngoài ra, chất lượng phôi với kết cục chu sinh cũng chỉ có một ít nghiên cứu quan tâm và kết quả đưa ra cũng không được rõ ràng. Vì vậy, Jennifer B. Bakkensen và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh giá tầm quan trọng của đặc điểm hình thái phôi nang với kết cục điều trị và kết cục chu sinh của bệnh nhân chuyển đơn phôi.
Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu trên 1023 chu kỳ chuyển phôi tươi và 1.222 chu kỳ chuyển phôi trữ thực hiện từ tháng 1/2012 đến tháng 2/2018, chất lượng phôi nang được đánh giá dựa trên hệ thống đánh giá phôi của Gardner. Kết quả nghiên cứu cho thấy ở cả chu kỳ chuyển phôi tươi và trữ, tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ sinh sống có mối tương quan đáng kể với độ nở rộng của khoang phôi, không có sự khác biệt với chất lượng ICM nhưng khi chất lượng TE giảm thì cả 2 tỉ lệ này đều giảm.
Khi so sánh trên kết cục chu sinh, kết quả nghiên cứu cho thấy không có mối tương quan giữa độ nở rộng của khoang phôi với sinh non, thai nhỏ hay lớn hơn so với tuổi thai ở cả 2 chu kỳ chuyển phôi tươi và trữ. Về mối tương quan của chất lượng ICM với kết cục chu sinh, nhóm tác giả chỉ ra rằng trong chu kỳ chuyển phôi trữ, tỉ lệ sinh non giảm khi chất lượng ICM giảm; tuổi thai lúc sinh tương ứng với 3 mức độ A B C là 38,9 tuần; 39,1 tuần và 39,3 tuần (p= 0,005). Tương tự, cân nặng trẻ tăng khi chất lượng ICM giảm trong chu kỳ chuyển phôi trữ, cân nặng là 3420g; 3555g; 3586g tương ứng với 3 mức độ A, B và C. Không có sự khác biệt được quan sát thấy ở chất lượng ICM với việc lớn hay nhỏ so với tuổi thai. Và cuối cùng, không có mối tương quan giữa chất lượng TE với kết cục chu sinh.
Kết quả nghiên cứu cho thấy độ nở rộng của phôi càng tăng và chất lượng TE càng cao giúp tăng tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ trẻ sinh sống. Ngoài ra, nghiên cứu này còn chỉ ra rằng chất lượng ICM có liên quan với sinh non trong chu kỳ chuyển phôi trữ, mặc dù chất lượng ICM cao liên quan đến việc tăng khả năng sinh non, nhưng không có mối liên hệ nào với những kết cục chu sinh khác. Nghiên cứu này cho thấy, việc bệnh nhân mang thai từ những phôi có độ nở rộng thấp, chất lượng ICM và TE không cao không có tương quan với kết cục chu sinh bất lợi.
Nguồn: Association between blastocyst morphology and pregnancy and perinatal outcomes following fresh and cryopreserved embryo transfer. Journal of Assisted Reproduction and Genetics. 10.1007/s10815-019-01580-0
Các tin khác cùng chuyên mục:
ADN tự do có nguồn gốc từ phôi so với sinh thiết tế bào lá nuôi phôi trong chẩn đoán di truyền lệch bội: tỉ lệ tương đồng và ý nghĩa lâm sàng - Ngày đăng: 18-09-2019
Quan điểm chuyên gia về việc cấy mô buồng trứng để trì hoãn mãn kinh - Ngày đăng: 18-09-2019
Phụ nữ bị viêm gan siêu vi B mãn tính không ảnh hưởng đến kết quả thai khi điều trị IVF ở chu kỳ đầu tiên - Ngày đăng: 16-09-2019
Giảm thai từ song thai thành đơn thai có chọn lọc, giảm nguy cơ sinh non và các biến chứng trong thai kỳ - Ngày đăng: 16-09-2019
Ảnh hưởng của chỉ số khối cơ thể ở phụ nữ đến kết quả thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm: Một nghiên cứu đa trung tâm - Ngày đăng: 16-09-2019
Phân tích NGS trên môi trường nuôi cấy phôi cho thấy sự tồn tại của các miRNA có nguồn gốc ngoài phôi - Ngày đăng: 16-09-2019
Vai trò của hoạt hóa noãn nhân tạo với bệnh nhân có tiền sử thất bại thụ tinh hoàn toàn hoặc thụ tinh kém - Ngày đăng: 16-09-2019
Vẫn còn chênh lệch lương theo giới tính của bác sĩ Nội tiết Sinh sản/Vô sinh - Ngày đăng: 12-09-2019
Ảnh hưởng của hội chứng buồng trứng đa nang lên sức khỏe xương - Ngày đăng: 12-09-2019
Kết cục điều trị của bệnh nhân 44-45 tuổi thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 12-09-2019
Khởi phát aspirin liều thấp trước tuần thai 11 có làm giảm tỷ lệ tiền sản giật? - Ngày đăng: 12-09-2019
Mô hình tiên lượng phôi có khả năng phát triển thành phôi nang chất lượng tốt - Ngày đăng: 12-09-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK