Tin tức
on Sunday 11-08-2019 11:30am
Danh mục: Tin quốc tế
Thể khảm nhiễm sắc thể hiện chiếm tỷ lệ cao, được báo cáo khoảng 70% số phôi phân chia ngày 3 và 90% phôi nang có nguồn gốc từ IVF (Taylor TH và cs, 2014). Một số lượng đáng kể các đột biến ở thể khảm xuất hiện trong giai đoạn phát triển sớm của phôi thuộc thế hệ trước và có thể được di truyền cho các cá thể con ở thế hệ tiếp theo. Hiện tại, phương pháp giải trình tự thế hệ mới độ phân giải cao (HR-NGS) đang cho thấy khả năng phát hiện thể khảm chính xác và đáng tin cậy. Việc chuyển các phôi có tỷ lệ khảm thấy sau khi phân tích NGS đã cho kết quả sinh ra các em bé khỏe mạnh. Tuy nhiên, dữ liệu về sự liên hệ giữa nguy cơ di truyền sai hỏng từ các cặp cha mẹ mang khảm nhiễm sắc thể với tình trạng nhiễm sắc thể của các phôi tiền làm tổ vẫn còn hạn chế. Do đó, nghiên cứu này sẽ áp dụng phương pháp HR-NGS để đánh giá tác động của tình trạng khảm ở cặp cha mẹ lên các phôi từ IVF của họ.
Tổng cộng 68 cặp vợ chồng được chẩn đoán mang thể khảm được thực hiện IVF và PGT; việc đánh giá karyotype được thực hiện đồng thời cho tất cả các đối tượng tham gia. Tổng cộng 209 phôi được thu nhận từ 68 cặp vợ chồng đã được đánh giá karyotype, đánh giá các dấu hiệu bất thường phôi liên quan đến bất thường nhiễm sắc thể và đánh giá HR-NGS sẽ được thực hiện để xác định tình trạng khảm của phôi và đối chiếu với kết quả từ cha mẹ tương ứng.
Kết quả: trong 209 phôi được phân tích có 153 phôi (73,21%) được thu nhận từ 55 cặp vợ chồng có bất thường về số lượng nhiễm sắc thể giới tính. Trong 153 phôi vừa đề cập, 2 phôi (1,31%) có 1 bản sao nhiễm sắc thể X bất thường, 1 phôi (0,65%) có hiện tượng khảm 46,XN,+X(thể khảm, 40%), 1 phôi (0,65%) có thừa ra 1 nhiễm sắc thể Y, 3 phôi (1,96%) biểu hiện bất thường cả nhiễm sắc thể X và nhiễm sắc thể sinh dưỡng, 4 phôi (2,61%) bất thường cấu trúc mới trên nhiễm sắc thể X. Trong 56 phôi (26,79%) còn lại được thu nhận từ 13 cặp vợ chồng có bất thường về cấu trúc nhiễm sắc thể sinh dưỡng. Đáng chú ý, trong 56 phôi này, 5 phôi (8,93%) có số lượng bản sao 16q21-q24.3 bất thường liên quan đến kết quả karyotype của cha mẹ, với vị trí đứt gãy tại điểm 16q22; 5 phôi (7,14%) biểu hiện kiểu karyotype 46,XX,dup(8p23.1–8p11.21) và 46,XY,del(8p22–8p11.21), mà các kiểu này tương quan với cha mẹ; 10 phôi (17,86%) có bất thường nhiễm sắc thể mới.
Kết luận: dữ liệu nghiên cứu cho thấy nguy cơ liên quan giữa bất thường nhiễm sắc thể ở phôi với các cá thể cha mẹ mang thể khảm với bất thường về nhiễm sắc thể giới tính là rất thấp. Do đó, PGT có thể không cần thiết phải được khuyến cáo ở trường hợp các bệnh nhân khảm có bất thường về số lượng nhiễm sắc thể giới tính, đặc biệt là các trường hợp bệnh nhân không đủ chi phí thực hiện. Ngược lại, các bệnh nhân mang thể khảm với bất thường về cấu trúc của nhiễm sắc thể sinh dưỡng có nguy cơ tương đối cao tạo ra phôi có kiểu bất thường không cân đối của nhiễm sắc thể liên quan. Do đó, PGT rất cần thiết được khuyến cáo cho các bệnh nhân mang thể thảm với bất thường cấu trúc nhiễm sắc thể sinh dưỡng, đặc biệt là trường hợp đứt gãy 16q22.
CVPH. Hồ Lan Trâm – IVFMD Tân Bình.
Nguồn: Next-generation sequencing analysis of embryos from mosaic patients undergoing in vitro fertilization and preimplantation genetic testing. Fertil Steril. 2019 Aug;112(2):291-297.e3. doi: 10.1016/j.fertnstert.2019.03.035. Epub 2019 May 24.
Tổng cộng 68 cặp vợ chồng được chẩn đoán mang thể khảm được thực hiện IVF và PGT; việc đánh giá karyotype được thực hiện đồng thời cho tất cả các đối tượng tham gia. Tổng cộng 209 phôi được thu nhận từ 68 cặp vợ chồng đã được đánh giá karyotype, đánh giá các dấu hiệu bất thường phôi liên quan đến bất thường nhiễm sắc thể và đánh giá HR-NGS sẽ được thực hiện để xác định tình trạng khảm của phôi và đối chiếu với kết quả từ cha mẹ tương ứng.
Kết quả: trong 209 phôi được phân tích có 153 phôi (73,21%) được thu nhận từ 55 cặp vợ chồng có bất thường về số lượng nhiễm sắc thể giới tính. Trong 153 phôi vừa đề cập, 2 phôi (1,31%) có 1 bản sao nhiễm sắc thể X bất thường, 1 phôi (0,65%) có hiện tượng khảm 46,XN,+X(thể khảm, 40%), 1 phôi (0,65%) có thừa ra 1 nhiễm sắc thể Y, 3 phôi (1,96%) biểu hiện bất thường cả nhiễm sắc thể X và nhiễm sắc thể sinh dưỡng, 4 phôi (2,61%) bất thường cấu trúc mới trên nhiễm sắc thể X. Trong 56 phôi (26,79%) còn lại được thu nhận từ 13 cặp vợ chồng có bất thường về cấu trúc nhiễm sắc thể sinh dưỡng. Đáng chú ý, trong 56 phôi này, 5 phôi (8,93%) có số lượng bản sao 16q21-q24.3 bất thường liên quan đến kết quả karyotype của cha mẹ, với vị trí đứt gãy tại điểm 16q22; 5 phôi (7,14%) biểu hiện kiểu karyotype 46,XX,dup(8p23.1–8p11.21) và 46,XY,del(8p22–8p11.21), mà các kiểu này tương quan với cha mẹ; 10 phôi (17,86%) có bất thường nhiễm sắc thể mới.
Kết luận: dữ liệu nghiên cứu cho thấy nguy cơ liên quan giữa bất thường nhiễm sắc thể ở phôi với các cá thể cha mẹ mang thể khảm với bất thường về nhiễm sắc thể giới tính là rất thấp. Do đó, PGT có thể không cần thiết phải được khuyến cáo ở trường hợp các bệnh nhân khảm có bất thường về số lượng nhiễm sắc thể giới tính, đặc biệt là các trường hợp bệnh nhân không đủ chi phí thực hiện. Ngược lại, các bệnh nhân mang thể khảm với bất thường về cấu trúc của nhiễm sắc thể sinh dưỡng có nguy cơ tương đối cao tạo ra phôi có kiểu bất thường không cân đối của nhiễm sắc thể liên quan. Do đó, PGT rất cần thiết được khuyến cáo cho các bệnh nhân mang thể thảm với bất thường cấu trúc nhiễm sắc thể sinh dưỡng, đặc biệt là trường hợp đứt gãy 16q22.
CVPH. Hồ Lan Trâm – IVFMD Tân Bình.
Nguồn: Next-generation sequencing analysis of embryos from mosaic patients undergoing in vitro fertilization and preimplantation genetic testing. Fertil Steril. 2019 Aug;112(2):291-297.e3. doi: 10.1016/j.fertnstert.2019.03.035. Epub 2019 May 24.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Kết quả sản khoa và sơ sinh sau khi chuyển phôi giai đoạn phân chia và giai đoạn phôi nang có nguồn gốc từ hợp tử đơn tiền nhân - Ngày đăng: 09-08-2019
Có nên chuyển các phôi phát triển từ hợp tử một tiền nhân? - Ngày đăng: 09-08-2019
Mối tương quan giữa tuổi người cho noãn và kết quả điều trị của người xin noãn - Ngày đăng: 05-08-2019
Môi trường nuôi cấy phôi không ảnh hưởng đến sự phát triển nhận thức của trẻ 9 tuổi được sinh ra sau điều trị thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 05-08-2019
Ảnh hưởng của sử dụng cà phê hàng ngày ở phụ nữ lên thành công của điều trị vô sinh: nghiên cứu đoàn hệ ở Đan Mạch - Ngày đăng: 05-08-2019
Vai trò của chẩn đoán lệch bội nhiễm sắc thể trên nhóm bệnh nhân lớn tuổi - Ngày đăng: 05-08-2019
Tụ máu dưới màng đệm và nguy cơ sẩy thai trên thai kỳ đơn thai - Ngày đăng: 05-08-2019
Ảnh hưởng của hoạt hóa noãn nhân tạo bằng Calcium Inophore trên noãn không thụ tinh sau một ngày ICSI - Ngày đăng: 05-08-2019
Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên so sánh hiệu quả của Nifedipine và Indomethacin trong dự phòng sinh non - Ngày đăng: 30-07-2019
Mối liên hệ giữa chuyển hóa amino acid và lệch bội nhiễm sắc thể giai đoạn tiền làm tổ của phôi IVF - Ngày đăng: 30-07-2019
Trữ mô tinh hoàn: 8 năm kinh nghiệm từ mạng lưới liên kết của các trung tâm - Ngày đăng: 30-07-2019
CHẤT LƯỢNG TINH TRÙNG NGÀY CHỌC HÚT GIÚP DỰ ĐOÁN TỶ LỆ THỤ TINH THẤP TRONG CHU KỲ IVF CỔ ĐIỂN - Ngày đăng: 29-07-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK