Tin tức
on Sunday 26-04-2020 10:56pm
Danh mục: Tin quốc tế
BS. Lê Tiểu My - Bệnh viện Mỹ Đức
Cặn ối là một dấu hiệu thường gặp trên siêu âm, được mô tả là khối phản âm nằm tự do trong khoang ối gần lỗ trong CTC khi màng ối còn nguyên vẹn. Về lâm sàng, cặn ối là yếu tố độc lập liên quan đến một số các nguy cơ như nhiễm trùng, cổ tử cung ngắn và tăng nguy cơ sinh non. Đã có một số nghiên cứu đánh giá cặn ối, cho rằng hiện tượng này do nhiễm trùng màng sinh học trong tử cung, tuy nhiên vẫn ít chứng cứ về tác dụng kháng sinh điều trị.
Một nghiên cứu đánh giá về hiệu quả của kháng sinh điều trị ở trường hợp quan sát thấy cặn ối qua siêu âm ngả âm đạo, so sánh tỷ lệ sinh non giữa hai nhóm có hoặc không sử dụng kháng sinh. Đây là thiết kế hồi cứu, đánh giá trên nhóm bệnh nhân khám thai ngoại trú trong tuổi thai 15 – 25 tuần. Bệnh nhân được phân chia vào nhóm có hoặc không sử dụng kháng sinh đường uống tại thời điểm chẩn đoán. Những trường hợp đa thai, thai dị tật, sinh non, nhau tiền đạo và/hoặc theo dõi nhau cài răng lược bị loại khỏi nghiên cứu. Kết quả phân tích chính là sinh non trước 37 tuần qua phân tích đơn biến và dùng phân tích hồi quy để kiểm soát các biến đồng tuyến tính và/hoặc có thể gây nhiễu. Kết quả phụ được so sánh bằng phân tích đơn biến.
Kết quả phân tích cho thấy:
Tổng cộng có 97/181 bệnh nhân thoả tiêu chuẩn tham gia nghiên cứu. Trong số này, 51 trường hợp được điều trị bằng kháng sinh đường uống (46 azithromycin và 5 moxifloxacin) và 46 trường hợp không can thiệp. Tỷ lệ sinh non <37 tuần là 49,4% (48/97) và sinh non <28 tuần là 22,7% (22/97). Không có sự khác biệt đáng kể về sinh non <37 tuần (P = 0,47) hoặc <28 tuần (P = 0,83) giữa hai nhóm có và không được điều trị. Sau khi điều chỉnh các yếu tố chủng tộc, BMI, sử dụng thuốc lá, chiều dài cổ tử cung và tiền sử sinh non, điều trị bằng kháng sinh không làm giảm nguy cơ sinh non (tỷ lệ chênh lệch được điều chỉnh 1,3; khoảng tin cậy 0,77−1,9). Không có sự khác biệt về tỷ lệ vỡ ối non (P = 0,94) hoặc thời gian trung bình từ lúc chẩn đoán đến lúc sinh (P = 0,47). Cân nặng khi sinh (P = 0,99), nhiễm trùng (P = 0,53), xuất huyết trong não thất (P = 0,95) và nhập đơn vị chăm sóc đặc biệt sơ sinh (NICU) (P = 0,08) không bị ảnh hưởng bởi điều trị bằng kháng sinh. Điều trị bằng kháng sinh không tác động đến tỷ lệ nhiễm trùng ối trên lâm sàng hoặc giải phẫu bệnh (lần lượt P = 0,92 và 0,14) hoặc nhiễm trùng giai đoạn 2−3 ở mẹ hoặc thai nhi (P = 0,94 và 0,58). Trên siêu âm quan sát thấy cặn ối trong lần siêu âm tiếp theo sau lần đầu tiên ở 34% phụ nữ được điều trị bằng kháng sinh và 43% phụ nữ không được điều trị (P = 0,42). Không có sự khác biệt về quãng thời gian từ lúc chẩn đoán đến khi sinh hoặc tuổi thai trung bình khi sinh khi cặn ối mất hay vẫn tồn tại ở lần siêu âm tiếp theo sau lần đầu tiên (P = 0,14 cho mỗi lần siêu âm).
Từ kết quả trên cho thấy, điều trị kháng sinh đối với cặn ối không liên quan đến việc giảm tỷ lệ sinh non, không liên quan đến sự cải thiện các biến số sản khoa, sơ sinh hoặc bệnh lý khác. Những phát hiện này cho thấy rằng không cần sử dụng kháng sinh điều trị (azithromycin) khi quan sát thấy cặn ối trên siêu âm giữa thai kỳ.
Lược dịch từ: Effect of antibiotic treatment of amniotic fluid sludge – AJOG Vol 2, issue 1 – Feb 2020 Một nghiên cứu đánh giá về hiệu quả của kháng sinh điều trị ở trường hợp quan sát thấy cặn ối qua siêu âm ngả âm đạo, so sánh tỷ lệ sinh non giữa hai nhóm có hoặc không sử dụng kháng sinh. Đây là thiết kế hồi cứu, đánh giá trên nhóm bệnh nhân khám thai ngoại trú trong tuổi thai 15 – 25 tuần. Bệnh nhân được phân chia vào nhóm có hoặc không sử dụng kháng sinh đường uống tại thời điểm chẩn đoán. Những trường hợp đa thai, thai dị tật, sinh non, nhau tiền đạo và/hoặc theo dõi nhau cài răng lược bị loại khỏi nghiên cứu. Kết quả phân tích chính là sinh non trước 37 tuần qua phân tích đơn biến và dùng phân tích hồi quy để kiểm soát các biến đồng tuyến tính và/hoặc có thể gây nhiễu. Kết quả phụ được so sánh bằng phân tích đơn biến.
Kết quả phân tích cho thấy:
Tổng cộng có 97/181 bệnh nhân thoả tiêu chuẩn tham gia nghiên cứu. Trong số này, 51 trường hợp được điều trị bằng kháng sinh đường uống (46 azithromycin và 5 moxifloxacin) và 46 trường hợp không can thiệp. Tỷ lệ sinh non <37 tuần là 49,4% (48/97) và sinh non <28 tuần là 22,7% (22/97). Không có sự khác biệt đáng kể về sinh non <37 tuần (P = 0,47) hoặc <28 tuần (P = 0,83) giữa hai nhóm có và không được điều trị. Sau khi điều chỉnh các yếu tố chủng tộc, BMI, sử dụng thuốc lá, chiều dài cổ tử cung và tiền sử sinh non, điều trị bằng kháng sinh không làm giảm nguy cơ sinh non (tỷ lệ chênh lệch được điều chỉnh 1,3; khoảng tin cậy 0,77−1,9). Không có sự khác biệt về tỷ lệ vỡ ối non (P = 0,94) hoặc thời gian trung bình từ lúc chẩn đoán đến lúc sinh (P = 0,47). Cân nặng khi sinh (P = 0,99), nhiễm trùng (P = 0,53), xuất huyết trong não thất (P = 0,95) và nhập đơn vị chăm sóc đặc biệt sơ sinh (NICU) (P = 0,08) không bị ảnh hưởng bởi điều trị bằng kháng sinh. Điều trị bằng kháng sinh không tác động đến tỷ lệ nhiễm trùng ối trên lâm sàng hoặc giải phẫu bệnh (lần lượt P = 0,92 và 0,14) hoặc nhiễm trùng giai đoạn 2−3 ở mẹ hoặc thai nhi (P = 0,94 và 0,58). Trên siêu âm quan sát thấy cặn ối trong lần siêu âm tiếp theo sau lần đầu tiên ở 34% phụ nữ được điều trị bằng kháng sinh và 43% phụ nữ không được điều trị (P = 0,42). Không có sự khác biệt về quãng thời gian từ lúc chẩn đoán đến khi sinh hoặc tuổi thai trung bình khi sinh khi cặn ối mất hay vẫn tồn tại ở lần siêu âm tiếp theo sau lần đầu tiên (P = 0,14 cho mỗi lần siêu âm).
Từ kết quả trên cho thấy, điều trị kháng sinh đối với cặn ối không liên quan đến việc giảm tỷ lệ sinh non, không liên quan đến sự cải thiện các biến số sản khoa, sơ sinh hoặc bệnh lý khác. Những phát hiện này cho thấy rằng không cần sử dụng kháng sinh điều trị (azithromycin) khi quan sát thấy cặn ối trên siêu âm giữa thai kỳ.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Sự co lại của phôi nang có liên quan chặt chẽ với lệch bội, giảm tỉ lệ làm tổ và sự phân chia chậm của phôi: một nghiên cứu time lapse - Ngày đăng: 26-04-2020
Đánh giá chiều dài kênh cổ tử cung trên thai kỳ song thai doạ sinh non - Ngày đăng: 26-04-2020
Ảnh hưởng của sự tăng nhiệt độ trong quá trình rã đông đến sự sống và chức năng tinh trùng - Ngày đăng: 26-04-2020
Tổng quan hệ thống và phân tích gộp kết cục chu sinh ở thai kỳ có u mạch nhau - Ngày đăng: 26-04-2020
Tương quan giữa kích thước tinh hoàn và khả năng thu hồi tinh trùng ở vô tinh không do tắc - Ngày đăng: 26-04-2020
Mối liên hệ ẩn giấu giữa sẩy thai liên tiếp không rõ nguyên nhân và vô sinh không rõ nguyên nhân - Ngày đăng: 26-04-2020
Không có bằng chứng về SARS-CoV-2 trong tinh dịch của nam giới hồi phục sau khi mắc COVID-19 - Ngày đăng: 25-04-2020
Reactive oxygen species và khả năng sinh sản của nam giới - Ngày đăng: 25-04-2020
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ LÀM TĂNG KHẢ NĂNG HOẠT ĐỘNG CREATINE KINASE CỦA PENTOXIFYLLINE - Ngày đăng: 25-04-2020
Hiệu quả lâm sàng khi thay đổi thời gian phôi ở môi trường cân bằng trong thủy tinh hóa - Ngày đăng: 25-04-2020
KẾT QUẢ THAI SAU BƠM TINH TRÙNG VÀO BUỒNG TỬ CUNG Ở NHÓM PHỤ NỮ TRẺ TUÔI GIẢM DỰ TRỮ BUỒNG TRỨNG - Ngày đăng: 25-04-2020
EXOSOME: DẤU ẤN SINH HỌC MỚI GIÚP PHÁT HIỆN BỆNH LÝ LẠC NỘI MẠC TỬ CUNG - Ngày đăng: 25-04-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK