Tin tức
on Saturday 25-04-2020 10:57pm
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Phạm Ngọc Đan Thanh – IVFAS
Nguồn: Nazri, H.M., Imran, M., Fischer, R., Heilig, R., Manek, S., Dragovic, R.A. et al, Characterization of exosomes in peritoneal fluid of endometriosis patients. Fertil Steril. 2020;113:364–373
Lạc nội mac tử cung (endometriosis) là tình trạng các tế bào nội mạc tử cung phát triển ngoài buồng tử cung. Đây là một bệnh lý khá phổ biến, ảnh hưởng gần 200 triệu phụ nữ trên khắp thế giới, một số ít phụ nữ vẫn tiếp tục bị lạc nội mạc tử cung ngay cả khi mãn kinh. Bệnh lý thường tiến triển âm thầm, và có thể gây sẹo vùng chậu, tổn thương buồng trứng và ống dẫn trứng, gây đau và có thể dẫn đến vô sinh. Ngoài ra, do không đủ chuyên môn, thiếu các dấu ấn sinh học liên quan đến lâm sàng và các triệu chứng liên quan đến lạc nội mạc tử cung không đặc hiệu, nhiều phụ nữ có thể phải mất 6 đến 9 năm mới phát hiện ra bệnh nhờ thực hiện thủ thuật nội soi.
Gần đây, exosome được cho là một công cụ chẩn đoán đầy tiềm năng để phát hiện bệnh. Exosome là những hạt nano liên kết với lipid được tiết ra bởi hầu hết mọi tế bào, vì vậy chúng có mặt trong hầu hết dịch sinh học như: máu, sữa, nước tiểu, môi trường nuôi cấy tế bào… Vì exosome có chứa protein, lipid và ARN, cho nên exosome có thể hữu ích cho mục đích chẩn đoán bệnh. Cho đến nay, đã có những nỗ lực đáng kể được thực hiện để sử dụng exosome như một công cụ chẩn đoán.
Trong nhóm bệnh nhân lạc nội mạc tử cung, một nghiên cứu cho thấy những exosome sau khi phân lập từ mô đệm nội mạc tử cung có mang mir-21, đây là một RNA vi mô liên quan đến sự hình thành mạch. Những nghiên cứu khác cũng cho kết quả tương tự phát hiện ra exosome từ huyết thanh hoặc môi trường nuôi cấy bên trong nội mạc tử cung. Tuy nhiên, trái với những nguồn cung cấp exosome gián tiếp, vẫn chưa có nghiên cứu trực tiếp nào về sự biểu hiện của exosome trong dịch màng bụng.
Nghiên cứu được thực hiện nhằm chứng minh tính khả thi của việc nghiên cứu exosome trực tiếp từ dịch màng bụng của bệnh nhân. Nhóm tác giả đã phân lập exosome ở hai nhóm gồm bệnh nhân lạc nội mạc tử cung và nhóm đối chứng (nội mạc tử cung bình thường). Đây là nghiên cứu bệnh chứng trên những bệnh nhân đã trải qua phẫu thuật nội soi. Kết cục chính là nồng độ của các exosome trong dịch màng bụng và hàm lượng protein ở các exosome được phân lập.
Các mẫu dịch màng bụng được nhóm lại theo giai đoạn của chu kỳ kinh và giai đoạn của bệnh để tạo thành sáu nhóm, từ đó phân lập exosome. Phân lập thành công exosome từ dịch màng bụng ở tất cả đối tượng nghiên cứu. Nghiên cứu đánh giá nồng độ exsome thay đổi theo chu kỳ và giai đoạn của bệnh. Phân tích proteomic cho thấy những protein cụ thể trong exosome có nguồn gốc từ những bệnh nhân lạc nội mạc tử cung thì không tìm thấy ở nhóm có nội mạc tử cung bình thường. Năm loại protein chỉ có duy nhất ở nhóm lạc nội mạc tử cung là: PRDX1, H2A type 2-C, ANXA2, ITIH4, và chuỗi α tubulin.
Sự phân lập thành công exosome trực tiếp từ dịch màng bụng cho thấy exosome có thể là một dấu ấn sinh học của bệnh lý lạc nội mạc tử cung. Đặc tính của exosome đặc hiệu ở NMTC mở ra con đường mới trong chẩn đoán và tìm ra bệnh lý lạc nội mạc tử cung.
Gần đây, exosome được cho là một công cụ chẩn đoán đầy tiềm năng để phát hiện bệnh. Exosome là những hạt nano liên kết với lipid được tiết ra bởi hầu hết mọi tế bào, vì vậy chúng có mặt trong hầu hết dịch sinh học như: máu, sữa, nước tiểu, môi trường nuôi cấy tế bào… Vì exosome có chứa protein, lipid và ARN, cho nên exosome có thể hữu ích cho mục đích chẩn đoán bệnh. Cho đến nay, đã có những nỗ lực đáng kể được thực hiện để sử dụng exosome như một công cụ chẩn đoán.
Trong nhóm bệnh nhân lạc nội mạc tử cung, một nghiên cứu cho thấy những exosome sau khi phân lập từ mô đệm nội mạc tử cung có mang mir-21, đây là một RNA vi mô liên quan đến sự hình thành mạch. Những nghiên cứu khác cũng cho kết quả tương tự phát hiện ra exosome từ huyết thanh hoặc môi trường nuôi cấy bên trong nội mạc tử cung. Tuy nhiên, trái với những nguồn cung cấp exosome gián tiếp, vẫn chưa có nghiên cứu trực tiếp nào về sự biểu hiện của exosome trong dịch màng bụng.
Nghiên cứu được thực hiện nhằm chứng minh tính khả thi của việc nghiên cứu exosome trực tiếp từ dịch màng bụng của bệnh nhân. Nhóm tác giả đã phân lập exosome ở hai nhóm gồm bệnh nhân lạc nội mạc tử cung và nhóm đối chứng (nội mạc tử cung bình thường). Đây là nghiên cứu bệnh chứng trên những bệnh nhân đã trải qua phẫu thuật nội soi. Kết cục chính là nồng độ của các exosome trong dịch màng bụng và hàm lượng protein ở các exosome được phân lập.
Các mẫu dịch màng bụng được nhóm lại theo giai đoạn của chu kỳ kinh và giai đoạn của bệnh để tạo thành sáu nhóm, từ đó phân lập exosome. Phân lập thành công exosome từ dịch màng bụng ở tất cả đối tượng nghiên cứu. Nghiên cứu đánh giá nồng độ exsome thay đổi theo chu kỳ và giai đoạn của bệnh. Phân tích proteomic cho thấy những protein cụ thể trong exosome có nguồn gốc từ những bệnh nhân lạc nội mạc tử cung thì không tìm thấy ở nhóm có nội mạc tử cung bình thường. Năm loại protein chỉ có duy nhất ở nhóm lạc nội mạc tử cung là: PRDX1, H2A type 2-C, ANXA2, ITIH4, và chuỗi α tubulin.
Sự phân lập thành công exosome trực tiếp từ dịch màng bụng cho thấy exosome có thể là một dấu ấn sinh học của bệnh lý lạc nội mạc tử cung. Đặc tính của exosome đặc hiệu ở NMTC mở ra con đường mới trong chẩn đoán và tìm ra bệnh lý lạc nội mạc tử cung.
Nguồn: Nazri, H.M., Imran, M., Fischer, R., Heilig, R., Manek, S., Dragovic, R.A. et al, Characterization of exosomes in peritoneal fluid of endometriosis patients. Fertil Steril. 2020;113:364–373
Các tin khác cùng chuyên mục:
Kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có làm tăng nguy cơ tử vong ở trẻ nhỏ hay không? Một nghiên cứu cấp quốc gia tại Thuỵ Điển - Ngày đăng: 25-04-2020
Ảnh hưởng của nhiễm SARS-CoV-2 đối với chức năng tuyến sinh dục nam: Một nghiên cứu đơn trung tâm - Ngày đăng: 25-04-2020
PGT-A trên bệnh nhân đáp ứng buồng trứng kém có ít noãn: Có thật sự cần thiết? - Ngày đăng: 25-04-2020
Ảnh hưởng của tỉ lệ hình thái tinh trùng bình thường đến kết quả lâm sàng và trẻ sơ sinh trong chu kì IVF - Ngày đăng: 23-04-2020
Thực hiện kỹ thuật icsi trong vòng 4 giờ sau khi tách noãn có thể cải thiện kết quả lâm sàng - Ngày đăng: 23-04-2020
Mối tương quan giữa thời gian ngủ, chất lượng giấc ngủ và chất lượng tinh dịch ở nam giới - Ngày đăng: 23-04-2020
Việc sinh con có làm cải thiện sức khoẻ tinh thần của những phụ nữ không có con tự nhiên hay không? - Ngày đăng: 20-04-2020
Ảnh hưởng của hoạt hóa noãn nhân tạo bằng Canxi Ionophore trong phân ly nhiễm sắc thể ở giảm phân II của noãn - Ngày đăng: 20-04-2020
So sánh tỷ lệ thụ tinh giữa điều trị ICSI và IVF cổ điển trong nhóm bệnh nhân lớn tuổi và vô sinh do yếu tố tinh trùng - Ngày đăng: 20-04-2020
Hiệu quả của Pentoxifylline trong tăng khả năng di động của tinh trùng - Ngày đăng: 20-04-2020
Kết quả thai sau chuyển phôi trữ có áp dụng hỗ trợ thoát màng bằng laser - Ngày đăng: 18-04-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK