Tin tức
on Monday 20-04-2020 9:04am
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Đặng Thị Huyền Trang _IVFMD Tân Bình
Vô sinh được định nghĩa là nếu cặp vợ chồng quan hệ bình thường không sử dụng biện pháp tránh thai nào trong vòng 12 tháng trở lên mà vẫn không thụ thai (theo Hiệp hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ, 2008). Vô sinh cũng khá phổ biến, tỷ lệ phụ nữ bị vô sinh được xác định là khoảng 7-15,5% trong một năm (Thomas và cs, 2013). Mặc dù nhiều người vẫn nghĩ vô sinh là không có khả năng có con vĩnh viễn, nhưng về mặt y tế thì không như vậy. Phần lớn phụ nữ bị vô sinh sẽ vẫn trở thành mẹ tại một thời điểm nào đó. Việc làm mẹ là một điều quan trọng ở phụ nữ (McQuillan và cs, 2008; Katz-Wise và cs, 2010). Hầu hết phụ nữ đều mong muốn có ít nhất 2 con, và làm mẹ được coi là dấu hiệu của tuổi trưởng thành trong số nhiều phụ nữ ở Mỹ (Parry và Shinew, 2004). Hầu hết phụ nữ đánh giá việc làm mẹ là thiên chức quan trọng trong cuộc đời họ (Reitzes và Mutran, 2002). Chính vì vậy, vô sinh là một rào cản để đạt mục tiêu sống quan trọng của phụ nữ (Greil et al., 2014). Do đó, nghiên cứu đặt ra giả thuyết là vô sinh liên quan đến sức khoẻ tinh thần (SWB) và việc giải quyết vô sinh thông qua hỗ trợ sinh sản sẽ giúp cải thiện sức khoẻ tinh thần. Mặc dù, có vẻ hợp lý nhưng cũng có bằng chứng cho thấy việc giải quyết vô sinh (sinh con) lại có liên quan đến triệu chứng trầm cảm và làm giảm SWB (Evenson và Simon, 2005; Hansen, 2012; Sejbaek và cộng sự, 2015; Baetschmann và cộng sự, 2016). Vấn đề vô sinh thường là một chủ đề trung tâm trong cuộc sống của họ, họ không thể tiến lên trong cuộc sống và bị đau buồn về các mối quan hệ, cũng như không thể trở thành mẹ (Johansson và Berg, 2005). Dù không có mất mát cụ thể nhưng họ thường cảm thấy đau khổ vì điều đó (Daniluk, 2001). Một số nghiên cứu gần đây cho thấy một số tác động của vô sinh đến chất lượng cuộc sống (Monga và cs, 2004; Chachamovich và cs, 2007, 2010; Wischmann và cs, 2012; Heredia và cs., 2013; Mousavi và cs, 2013). Trong bài báo này, sử dụng thước đo các triệu chứng trầm cảm như một chỉ báo về trạng thái tâm trạng tiêu cực và là thước đo cho sự hài lòng về cuộc sống để đánh giá sức khoẻ tinh thần. Ngoài ra, còn đánh giá về lòng tự trọng giúp phản ánh sự tự nhận thức tích cực về bản thân (Rosenberg, 1979, 1990; Cast và Burk, 2002).
Nghiên cứu bao gồm những phụ nữ không có con, bị vô sinh hoặc bị vấn đề về sinh sản (n=283) được phỏng vấn trong 2 đợt (cách nhau 3 năm) của NSFB (The National Survey of Fertility Barriers) bằng cách gọi điện thoại ngẫu nhiên. Các triệu chứng trầm cảm, lòng tự trọng, và sự hài lòng về cuộc sống được đánh giá cho tất cả 283 người tham gia cả 2 đợt. Đối với cả ba biến số, thay đổi điểm số ở 47 người phụ nữ không có con nhưng sau đó nhờ điều trị vô sinh thì có con so với điểm của 236 phụ nữ không có con.
Kết quả: Việc giải quyết vô sinh có liên quan đến tăng sự hài lòng và an tâm trong cuộc sống, tuy nhiên không làm giảm các triệu chứng trầm cảm.
Không có mối quan hệ giữa việc hỗ trợ vô sinh và việc làm thay đổi triệu chứng trầm cảm, tuy nhiên phụ nữ không có con và được hỗ trợ điều trị vô sinh có con đã giúp cải thiện được sự tự trọng trong các mối quan hệ. Chính vì vậy, việc giải quyết vấn đề vô sinh không những giúp giải quyết nhu cầu xã hội mà còn có liên quan đến cải thiện sức khoẻ tinh thần đối với những cặp vợ chồng vô sinh.
Nguồn: Karina M Shreffler, Arthur L Greil, Stacy M Tiemeyer, Julia McQuillan (2020). Is infertility resolution associated with a change in women’s well-being? Human Reproduction, Volume 35, Issue 3, March 2020, Pages 605–616
https://academic.oup.com/humrep/article/35/3/605/5766452?searchresult=1
Nghiên cứu bao gồm những phụ nữ không có con, bị vô sinh hoặc bị vấn đề về sinh sản (n=283) được phỏng vấn trong 2 đợt (cách nhau 3 năm) của NSFB (The National Survey of Fertility Barriers) bằng cách gọi điện thoại ngẫu nhiên. Các triệu chứng trầm cảm, lòng tự trọng, và sự hài lòng về cuộc sống được đánh giá cho tất cả 283 người tham gia cả 2 đợt. Đối với cả ba biến số, thay đổi điểm số ở 47 người phụ nữ không có con nhưng sau đó nhờ điều trị vô sinh thì có con so với điểm của 236 phụ nữ không có con.
Kết quả: Việc giải quyết vô sinh có liên quan đến tăng sự hài lòng và an tâm trong cuộc sống, tuy nhiên không làm giảm các triệu chứng trầm cảm.
Không có mối quan hệ giữa việc hỗ trợ vô sinh và việc làm thay đổi triệu chứng trầm cảm, tuy nhiên phụ nữ không có con và được hỗ trợ điều trị vô sinh có con đã giúp cải thiện được sự tự trọng trong các mối quan hệ. Chính vì vậy, việc giải quyết vấn đề vô sinh không những giúp giải quyết nhu cầu xã hội mà còn có liên quan đến cải thiện sức khoẻ tinh thần đối với những cặp vợ chồng vô sinh.
Nguồn: Karina M Shreffler, Arthur L Greil, Stacy M Tiemeyer, Julia McQuillan (2020). Is infertility resolution associated with a change in women’s well-being? Human Reproduction, Volume 35, Issue 3, March 2020, Pages 605–616
https://academic.oup.com/humrep/article/35/3/605/5766452?searchresult=1
Từ khóa: Việc sinh con có làm cải thiện sức khoẻ tinh thần của những phụ nữ không có con tự nhiên hay không?
Các tin khác cùng chuyên mục:
Ảnh hưởng của hoạt hóa noãn nhân tạo bằng Canxi Ionophore trong phân ly nhiễm sắc thể ở giảm phân II của noãn - Ngày đăng: 20-04-2020
So sánh tỷ lệ thụ tinh giữa điều trị ICSI và IVF cổ điển trong nhóm bệnh nhân lớn tuổi và vô sinh do yếu tố tinh trùng - Ngày đăng: 20-04-2020
Hiệu quả của Pentoxifylline trong tăng khả năng di động của tinh trùng - Ngày đăng: 20-04-2020
Kết quả thai sau chuyển phôi trữ có áp dụng hỗ trợ thoát màng bằng laser - Ngày đăng: 18-04-2020
Vai trò tiên lượng của xét nghiệm di truyền tiền làm tổ phôi lệch bội (PGT-A) ở các trường hợp có chỉ định y khoa về bảo tồn khả năng sinh sản - Ngày đăng: 18-04-2020
Mối liên quan của các thể đa hình di truyền trên miRNA với nguy cơ thất bại làm tổ nhiều lần - Ngày đăng: 18-04-2020
Giảm dự trữ buồng trứng và sẩy thai liên tiếp: một tổng quan hệ thống và phân tích gộp - Ngày đăng: 18-04-2020
Tuổi mẹ có ảnh hưởng đến tiềm năng làm tổ của phôi nang nguyên bội hay không? - Ngày đăng: 09-04-2020
An toàn trong siêu âm sản phụ khoa trong bối cảnh dịch Covid – 19 hướng dẫn từ hiệp hội siêu âm sản phụ khoa - Ngày đăng: 08-04-2020
Kết quả thu nhận tinh trùng bằng phương pháp micro-tese trên nhóm bệnh nhân Klinefelter mà không cần điều trị nội tiết - Ngày đăng: 08-04-2020
Hiệu quả sử dụng tinh trùng tươi và tinh trùng trữ trong điều trị vô sinh bằng phương pháp Icsi-microtese - Ngày đăng: 08-04-2020
Biểu hiện của Phospholipase Plc Zeta ở tinh trùng: ảnh hưởng của việc trữ lạnh - Ngày đăng: 06-04-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK