Tin tức
on Monday 20-04-2020 8:59am
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Huỳnh Trọng Kha – IVFMD Tân Bình
Hoạt hóa noãn là một quá trình phức tạp ở hầu hết các động vật hữu nhũ, nó được kích hoạt bởi sự xâm nhập của tinh trùng dẫn đến sự giải phóng canxi từ mạng lưới nội chất, gây ra xung dao động canxi nội bào noãn. Canxi được xem là tín hiệu then chốt để kích hoạt noãn bào thành công và khởi đầu cho quá trình tạo phôi tiếp sau đó. Và có khoảng 1-4% các trường hợp thất bại thụ tinh xảy ra trong tất cả các chu kỳ điều trị thụ tinh ống nghiệm (Kashir và cs, 2010). Vì vậy, hiện nay các trường hợp thất bại thụ tinh sau ICSI thường được giải quyết lâm sàng thông qua hoạt hoá noãn nhân tạo (Artificial oocyte activation - AOA), liên quan đến cảm ứng nhân tạo giải phóng Ca2+ sau ICSI. Và những quy trình AOA phổ biến nhất là sử dụng Ca2+ ionophores, strontium, ICSI cải tiến hoặc xung điện (Nikiforaki và cs, 2016). Đặc biệt là sử dụng ionophores vì nó có thể gây ra dòng Ca2+ bằng cách thay đổi tính thấm của màng plasma hoặc có thể tác động trực tiếp lên các bào quan nội bào giải phóng Ca2+ (Nikiforaki và cs, 2016). Tuy nhiên, cho đến hiện nay, sự an toàn của AOA vẫn còn đang được theo dõi và chứng minh bởi sự hỗ trợ tăng nồng độ Ca2+ nhân tạo, có thể ảnh hưởng đến một số hoạt động sinh lý của noãn. Vì vậy, trong nghiên cứu của Capalbo và cộng sự (2016), tác giả thực hiện nhằm tìm hiểu sự ảnh hưởng của AOA vào quá trình giảm phân II của noãn.
Ở Ý, theo quy định thì bệnh nhân chỉ được thực hiện ICSI tối đa 3 noãn cho một chu kì điều trị, số phôi tạo thành phải rất hạn chế và những noãn dư có thể hủy hoặc đông lạnh bảo quản lại cho chu kì sau. Do đó, nghiên cứu dưới sự đồng ý của bệnh nhân và hội đồng thẩm định Clinica Valle Giulia đã tiến hành thực hiện từ 6/2008 đến 5/2009 trên 56 noãn MII dư của 12 bệnh nhân thực hiện thụ tinh ống nghiệm. Các noãn dư sau khi rã đông đã thực hiện AOA với canxi-ionophore trong 40 phút. Sau đó, sử dụng các phương pháp xét nghiệm về gen như aCGH (array comparative genomic hybridization), SNP (single-nucleotide polymorphism) để đánh giá quá trình tái khởi động giảm phân II của noãn sau AOA (nhóm thí nghiệm) và tiến hành so sánh với kết quả phân tích phôi ở giai đoạn phân chia của bệnh nhân trước đó (nhóm chứng).
Kết quả thu được là:
- Tổng cộng có 49 noãn sống sau quá trình rã (88%), trong đó 39 noãn thực hiện AOA (79.6%). Các noãn này cho thấy sự hoạt hóa thành công với kết quả bình thường là sự xuất hiện thể cực thứ hai và có hoặc không có tiền nhân: 2PB1PN (2 Polar body – 1 Pronuclear) 76.9% (30/39); 2PB0PN: 12,8% (5/39). Ngoài ra, có 4 noãn AOA cho kết quả bất thường bao gồm 3 noãn có 2PB2PN: 7.7% (3/39) và một noãn 0PB1PN: 2.6% (1/39).
- Sau phân tích di truyền 30 noãn AOA tạo 2PB1PN thì có 27 noãn với kết quả phân tích đạt yêu cầu và trong số 27 noãn đó, có 16 noãn ở thể nguyên bội (59.3%; 95% CI 38.8%–77.6%).
- Riêng ở những noãn AOA tạo 2PB2PN, sau phân tích di truyền cho thấy là noãn lưỡng bội (digynic). Và ở những noãn này, tác giả tìm thấy các sai hỏng là bộ nhiễm sắc thể (NST) chỉ có một bản sao NST số 13 hoặc có sự mất đoạn trên hai nhiễm sắc thể 18 và 21.
- Nhìn chung, kết quả phân tích về sai sót trong quá trình giảm phân II, tác giả không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê của các tế bào noãn áp dụng AOA (28.6%; khoảng tin cậy 95% 3.7%–71.0%) so với phân tích phôi được tạo ra từ noãn thụ tinh bình thường (44.4%; khoảng tin cậy 95% 13.7%– 78.8%). Và kết quả phân tích cho thấy, tỷ lệ sai hỏng NST có thể xảy ra ở giảm phân II ước tính là 1.9% trên mỗi NST và 7.7% trên mỗi noãn có AOA, cũng như noãn không AOA.
Nguồn: Capalbo, A., Ottolini, C. S., Griffin, D. K., Ubaldi, F. M., Handyside, A. H., & Rienzi, L. (2016). Artificial oocyte activation with calcium ionophore does not cause a widespread increase in chromosome segregation errors in the second meiotic division of the oocyte. Fertility and Sterility, 105(3), 807–814.e2. doi:10.1016/j.fertnstert.2015.11.017
Các tin khác cùng chuyên mục:
So sánh tỷ lệ thụ tinh giữa điều trị ICSI và IVF cổ điển trong nhóm bệnh nhân lớn tuổi và vô sinh do yếu tố tinh trùng - Ngày đăng: 20-04-2020
Hiệu quả của Pentoxifylline trong tăng khả năng di động của tinh trùng - Ngày đăng: 20-04-2020
Kết quả thai sau chuyển phôi trữ có áp dụng hỗ trợ thoát màng bằng laser - Ngày đăng: 18-04-2020
Vai trò tiên lượng của xét nghiệm di truyền tiền làm tổ phôi lệch bội (PGT-A) ở các trường hợp có chỉ định y khoa về bảo tồn khả năng sinh sản - Ngày đăng: 18-04-2020
Mối liên quan của các thể đa hình di truyền trên miRNA với nguy cơ thất bại làm tổ nhiều lần - Ngày đăng: 18-04-2020
Giảm dự trữ buồng trứng và sẩy thai liên tiếp: một tổng quan hệ thống và phân tích gộp - Ngày đăng: 18-04-2020
Tuổi mẹ có ảnh hưởng đến tiềm năng làm tổ của phôi nang nguyên bội hay không? - Ngày đăng: 09-04-2020
An toàn trong siêu âm sản phụ khoa trong bối cảnh dịch Covid – 19 hướng dẫn từ hiệp hội siêu âm sản phụ khoa - Ngày đăng: 08-04-2020
Kết quả thu nhận tinh trùng bằng phương pháp micro-tese trên nhóm bệnh nhân Klinefelter mà không cần điều trị nội tiết - Ngày đăng: 08-04-2020
Hiệu quả sử dụng tinh trùng tươi và tinh trùng trữ trong điều trị vô sinh bằng phương pháp Icsi-microtese - Ngày đăng: 08-04-2020
Biểu hiện của Phospholipase Plc Zeta ở tinh trùng: ảnh hưởng của việc trữ lạnh - Ngày đăng: 06-04-2020
Tầm quan trọng của nồng độ hormone và tiền sử bệnh lý trước vi phẫu micro-tese - Ngày đăng: 06-04-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK