Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Saturday 25-04-2020 10:40pm
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
 CVPH. Lê Thị Bích Phượng - IVFMD Phú Nhuận

Giảm dự trữ buồng trứng (DOR) và đáp ứng buồng trứng kém (POR) là những nguyên nhân gây vô sinh thường gặp trong điều trị IVF. Phụ nữ lớn tuổi thường gặp những vấn đề này hơn phụ nữ trẻ tuổi, với việc giảm số lượng cũng như là chất lượng noãn đồng thời tăng tỉ lệ phôi lệch bội trong chu kỳ điều trị. Thập kỷ vừa qua, các kỹ thuật khuếch đại toàn bộ bộ gen ngày càng tiến bộ vì vậy mà kỹ thuật tầm soát di truyền lệch bội tiền làm tổ (PGT-A) ngày càng được thực hiện phổ biến với mục đích lựa chọn được phôi nguyên bội có tiềm năng làm tổ tốt nhất để chuyển cho bệnh nhân. Mặc dù một số nghiên cứu RCT cho thấy PGT-A không cải thiện toàn bộ kết cục thai kì nhưng một số khác lại cho rằng kỹ thuật này giúp hỗ trợ lựa chọn phôi, cải thiện tỉ lệ làm tổ và giảm tỉ lệ sẩy thai. Tuy nhiên dữ liệu nghiên cứu về vai trò của PGT-A đa số chỉ thực hiện trên những bệnh nhân đáp ứng buồng trứng bình thường, ít có dữ liệu trên bệnh nhân DOR hay POR. Vì vậy Jie Deng và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu này nhằm khảo sát liệu rằng PGT-A trên phôi nang có cải thiện kết quả lâm sàng so với chuyển phôi không thực hiện PGT-A ở những bệnh nhân POR có ít noãn hay không?

Nghiên cứu hồi cứu thực hiện từ năm 2016 đến năm 2019 trên những bệnh nhân POR chỉ có 1-4 noãn thu nhận sau chọc hút. Bệnh nhân được chia thành 2 nhóm: Nhóm PGT-A (nhóm 1-241 bệnh nhân) và nhóm không PGT-A (nhóm 2- 112 bệnh nhân). Ở nhóm PGT-A, sinh thiết thu nhận tế bào TE phôi nang và phân tích bằng kỹ thuật NGS và chuyển đơn phôi nguyên bội. Ở nhóm không thực hiện PGT-A, bệnh nhân được chuyển phôi ngày 3/5 trong chu kỳ chuyển phôi tươi hoặc phôi trữ. Kết quả nghiên cứu cho thấy:
Về đặc điểm nền, bệnh nhân ở nhóm 1 có AMH cao hơn so với nhóm 2 (0,7 ng/ml với 0,63 ng/ml), tuổi cũng tương đối cao hơn (40,8 với 39,4; p<0,001). Một số đặc điểm khác như BMI, số chu kỳ thực hiện, số lần sẩy thai không có sự khác biệt. Đánh giá về kết cục lâm sàng, tỉ lệ thai lâm sàng (7,1% với 8,9%, p=0,526) và tỉ lệ sinh sống (6,6% với 5,4%, p= 0,814) trên một chu kỳ chọc hút không có sự khác biệt giữa hai nhóm. Tính trên số phôi chuyển, nhóm 1 có tỉ lệ thai lâm sàng (50,0% với 12,7%, P < 0,001) và tỉ lệ sinh sống cao hơn (47,1% với 7,6%, P< 0,001). Nhìn chung, tỉ lệ sẩy thai ở nhóm 1 thấp hơn đáng kể so với nhóm 2.

Nghiên cứu này cho thấy PGT-A không cải thiện tỉ lệ sinh sống trên một chu kỳ điều trị ở những bệnh nhân POR có số noãn thu nhận được sau chọc hút <=4 noãn. Ngoài ra theo nghiên cứu này, tỉ lệ sẩy thai thấp hơn đáng kể ở nhóm thực hiện PGT-A. Vì vậy, quyết định có nên thực hiện PGT-A ở những bệnh nhân POR có ít noãn hay không cần được cân nhắc kỹ lưỡng trong chu kỳ điều trị của bệnh nhân.

Nguồn: Preimplantation genetic testing for aneuploidy in poor ovarian responders with four or fewer oocytes retrieved. Journal of Assisted Reproduction and Genetics. 10.1007/s10815-020-01765-y 2020.


Các tin khác cùng chuyên mục:
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK