Tin tức
on Saturday 25-04-2020 11:01pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Phan Thị Nhật Vy – Chuyên viên phôi học IVFAS
Nguồn: Tiegs, A. W., Sun, L., Scott Jr, R. T., & Goodman, L. R. (2020). Comparison of pregnancy outcomes following intrauterine insemination in young women with decreased versus normal ovarian reserve. Fertility and Sterility.
Anti-Mullerian hormone (AMH) được tiết ra từ tế bào hạt của nang noãn tiền hốc và nang noãn có hốc nhỏ. AMH phản ánh số nang noãn đang phát triển và quần thể nang nguyên thủy hiện có trong buồng trứng của người phụ nữ. Do đó AMH được xem như một chỉ số đánh giá dự trữ buồng trứng đáng tin cậy và tiện lợi hơn khi so với các phương pháp đánh giá dự trữ buồng trứng khác.
Nhiều nghiên cứu cho thấy nồng độ AMH huyết thanh có thể tiên lượng kết quả điều trị IVF, nồng độ AMH giảm tương quan với giảm chất lượng phôi và tỉ lệ thai, tuy nhiên phần lớn nghiên cứu cho thấy AMH có mối tương quan với khả năng đáp ứng của buồng trứng với kích thích buồng trứng có kiểm soát. Tuy nhiên mối quan hệ giữa nồng độ AMH huyết thanh với kết quả điều trị ở nhóm kích thích nhẹ, hoặc không kích thích ở các chu kì IUI vẫn còn chưa thống nhất. Ngoài ra tuổi vợ là một tác nhân tiên lượng quan trọng cho kết quả điều trị trong hỗ trợ sinh sản. Do đó nghiên cứu này được thực hiện nhằm so sánh kết quả thai lâm sàng sau IUI ở nhóm phụ nữ trẻ tuổi có AMH <1,0ng/ml và AMH >1,0ng/ml.
Nghiên cứu hồi cứu từ 2001 – 2018 bao gồm nhóm phụ nữ trẻ tuổi (<35 tuổi) thực hiện bơm tinh trùng vào buồng tử cung (IUI) ở chu kì tự nhiên hoặc có kích thích buồng trứng nhẹ. Những trường hợp tắc ống dẫn trứng, tổng số lượng tinh trùng sau lọc rửa <10.106 tinh trùng và lạc nội mạc tử cung sẽ bị loại khỏi nghiên cứu.
Bệnh nhân được cho xét nghiệm AMH, E2 P4 và AFC. Tiến hành theo dõi nang noãn và khi có ít nhất 1 nang ≥ 17mm sẽ trigger bằng hCG. Thực hiện IUI hai lần trong một chu kì: 12 giờ và 36 giờ sau khi tiêm hCG.
Kết quả chính là tỉ lệ beta hCG: được đo sau 2 tuần bơm IUI. Kết quả phụ bao gồm tỉ lệ trẻ sinh sống, thai sinh hóa, tỉ lệ sẩy thai, thai ngoài tử cung.
Nghiên cứu gồm 3019 bệnh nhân, trong đó có 370 (12,3%) bệnh nhân có AMH <1,0 ng/ml và 2649 (78,7%) bệnh nhân có AMH > 1,0 ng/ml. Độ tuổi trung bình, BMI, tổng số lượng tinh trùng sau lọc rửa, tổng số nang noãn > 10mm vào thời điểm trigger tương đương giữa hai nhóm. Tuy nhiên, chỉ số FSH, AFC có sự khác biệt đáng kể giữa nhóm AMH <1,0 ng/ml và >10 ng/ml (FSH 8,8 và 6,5, P <.001; AFC 10,4 và 22,9, P < .001).
Ở nhóm bệnh nhân IUI chu kì tự nhiên, 9,2% (34/370) bệnh nhân có AMH < 1,0 ng/ml; 13,1% (347/2649) bệnh nhân có AMH > 1,0ng/ml. Ở nhóm sử dụng phác đồ kích thích buồng trứng, tỉ lệ tùy thuộc vào loại thuốc sử dụng. Phổ biến nhất là nhóm sử dụng gonadotropins ngoại sinh có 74,3% bệnh nhân thuộc nhóm AMH < 1,0 ng/ml, 54,1% bệnh nhân nhóm AMH > 1,0 ng/ml. Theo sau là nhóm sử dụng clomiphene citrate và letrozole có 15,9% và 0,5% bệnh nhân có AMH <1,0 ng/ml; 30,2% và 2,6% bệnh nhân có AMH > 1,0 ng/ml.
Kết quả điều trị IUI giữa hai nhóm AMH < 1,0 ng/ml và AMH > 1,0 ng/ml tương đương nhau. Tỉ lệ beta hCG dương, thai sinh hóa, sẩy thai lâm sàng, tỉ lệ trẻ sinh sống không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm.
Ở nhóm bệnh nhân trẻ tuổi (<35 tuổi) có dự trữ buồng trứng kém (AMH < 1ng/ml) khả năng có thai và kết quả điều trị tương đương với nhóm AMH > 1ng/ml sau thủ thuật IUI.
Nhiều nghiên cứu cho thấy nồng độ AMH huyết thanh có thể tiên lượng kết quả điều trị IVF, nồng độ AMH giảm tương quan với giảm chất lượng phôi và tỉ lệ thai, tuy nhiên phần lớn nghiên cứu cho thấy AMH có mối tương quan với khả năng đáp ứng của buồng trứng với kích thích buồng trứng có kiểm soát. Tuy nhiên mối quan hệ giữa nồng độ AMH huyết thanh với kết quả điều trị ở nhóm kích thích nhẹ, hoặc không kích thích ở các chu kì IUI vẫn còn chưa thống nhất. Ngoài ra tuổi vợ là một tác nhân tiên lượng quan trọng cho kết quả điều trị trong hỗ trợ sinh sản. Do đó nghiên cứu này được thực hiện nhằm so sánh kết quả thai lâm sàng sau IUI ở nhóm phụ nữ trẻ tuổi có AMH <1,0ng/ml và AMH >1,0ng/ml.
Nghiên cứu hồi cứu từ 2001 – 2018 bao gồm nhóm phụ nữ trẻ tuổi (<35 tuổi) thực hiện bơm tinh trùng vào buồng tử cung (IUI) ở chu kì tự nhiên hoặc có kích thích buồng trứng nhẹ. Những trường hợp tắc ống dẫn trứng, tổng số lượng tinh trùng sau lọc rửa <10.106 tinh trùng và lạc nội mạc tử cung sẽ bị loại khỏi nghiên cứu.
Bệnh nhân được cho xét nghiệm AMH, E2 P4 và AFC. Tiến hành theo dõi nang noãn và khi có ít nhất 1 nang ≥ 17mm sẽ trigger bằng hCG. Thực hiện IUI hai lần trong một chu kì: 12 giờ và 36 giờ sau khi tiêm hCG.
Kết quả chính là tỉ lệ beta hCG: được đo sau 2 tuần bơm IUI. Kết quả phụ bao gồm tỉ lệ trẻ sinh sống, thai sinh hóa, tỉ lệ sẩy thai, thai ngoài tử cung.
Nghiên cứu gồm 3019 bệnh nhân, trong đó có 370 (12,3%) bệnh nhân có AMH <1,0 ng/ml và 2649 (78,7%) bệnh nhân có AMH > 1,0 ng/ml. Độ tuổi trung bình, BMI, tổng số lượng tinh trùng sau lọc rửa, tổng số nang noãn > 10mm vào thời điểm trigger tương đương giữa hai nhóm. Tuy nhiên, chỉ số FSH, AFC có sự khác biệt đáng kể giữa nhóm AMH <1,0 ng/ml và >10 ng/ml (FSH 8,8 và 6,5, P <.001; AFC 10,4 và 22,9, P < .001).
Ở nhóm bệnh nhân IUI chu kì tự nhiên, 9,2% (34/370) bệnh nhân có AMH < 1,0 ng/ml; 13,1% (347/2649) bệnh nhân có AMH > 1,0ng/ml. Ở nhóm sử dụng phác đồ kích thích buồng trứng, tỉ lệ tùy thuộc vào loại thuốc sử dụng. Phổ biến nhất là nhóm sử dụng gonadotropins ngoại sinh có 74,3% bệnh nhân thuộc nhóm AMH < 1,0 ng/ml, 54,1% bệnh nhân nhóm AMH > 1,0 ng/ml. Theo sau là nhóm sử dụng clomiphene citrate và letrozole có 15,9% và 0,5% bệnh nhân có AMH <1,0 ng/ml; 30,2% và 2,6% bệnh nhân có AMH > 1,0 ng/ml.
Kết quả điều trị IUI giữa hai nhóm AMH < 1,0 ng/ml và AMH > 1,0 ng/ml tương đương nhau. Tỉ lệ beta hCG dương, thai sinh hóa, sẩy thai lâm sàng, tỉ lệ trẻ sinh sống không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm.
Ở nhóm bệnh nhân trẻ tuổi (<35 tuổi) có dự trữ buồng trứng kém (AMH < 1ng/ml) khả năng có thai và kết quả điều trị tương đương với nhóm AMH > 1ng/ml sau thủ thuật IUI.
Nguồn: Tiegs, A. W., Sun, L., Scott Jr, R. T., & Goodman, L. R. (2020). Comparison of pregnancy outcomes following intrauterine insemination in young women with decreased versus normal ovarian reserve. Fertility and Sterility.
Các tin khác cùng chuyên mục:
EXOSOME: DẤU ẤN SINH HỌC MỚI GIÚP PHÁT HIỆN BỆNH LÝ LẠC NỘI MẠC TỬ CUNG - Ngày đăng: 25-04-2020
Kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có làm tăng nguy cơ tử vong ở trẻ nhỏ hay không? Một nghiên cứu cấp quốc gia tại Thuỵ Điển - Ngày đăng: 25-04-2020
Ảnh hưởng của nhiễm SARS-CoV-2 đối với chức năng tuyến sinh dục nam: Một nghiên cứu đơn trung tâm - Ngày đăng: 25-04-2020
PGT-A trên bệnh nhân đáp ứng buồng trứng kém có ít noãn: Có thật sự cần thiết? - Ngày đăng: 25-04-2020
Ảnh hưởng của tỉ lệ hình thái tinh trùng bình thường đến kết quả lâm sàng và trẻ sơ sinh trong chu kì IVF - Ngày đăng: 23-04-2020
Thực hiện kỹ thuật icsi trong vòng 4 giờ sau khi tách noãn có thể cải thiện kết quả lâm sàng - Ngày đăng: 23-04-2020
Mối tương quan giữa thời gian ngủ, chất lượng giấc ngủ và chất lượng tinh dịch ở nam giới - Ngày đăng: 23-04-2020
Việc sinh con có làm cải thiện sức khoẻ tinh thần của những phụ nữ không có con tự nhiên hay không? - Ngày đăng: 20-04-2020
Ảnh hưởng của hoạt hóa noãn nhân tạo bằng Canxi Ionophore trong phân ly nhiễm sắc thể ở giảm phân II của noãn - Ngày đăng: 20-04-2020
So sánh tỷ lệ thụ tinh giữa điều trị ICSI và IVF cổ điển trong nhóm bệnh nhân lớn tuổi và vô sinh do yếu tố tinh trùng - Ngày đăng: 20-04-2020
Hiệu quả của Pentoxifylline trong tăng khả năng di động của tinh trùng - Ngày đăng: 20-04-2020
Kết quả thai sau chuyển phôi trữ có áp dụng hỗ trợ thoát màng bằng laser - Ngày đăng: 18-04-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK