Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Wednesday 17-09-2025 4:15am
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế

CVPH. Ngô Thị Lan Phương
Đơn vị HTSS IVFMD FAMILY, Bệnh viện Đa khoa Gia Đình Đà Nẵng


Giới thiệu
Hội chứng buồng trứng đa nang (polycystic ovary syndrome - PCOS) ảnh hưởng đến 6–21% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Những bất thường trong tiết gonadotropin, sinh nang noãn, sinh steroid và tiết insulin đã được quan sát thấy ở những bệnh nhân này. Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng các yếu tố di truyền, biến đổi thượng di truyền, các yếu tố môi trường, stress oxy hóa, tình trạng viêm mãn tính cấp độ thấp, rối loạn chức năng ty thể và các rối loạn chuyển hóa có liên quan đến nguyên nhân gây ra PCOS và ảnh hưởng đến chức năng bình thường của buồng trứng.
Tình trạng kháng insulin (insulin resistance-IR) nổi lên như một nguyên nhân chính, ảnh hưởng đến 35–80% bệnh nhân PCOS và gây ra cả rối loạn chuyển hóa lẫn rối loạn chức năng sinh sản. IR làm suy yếu khả năng tiếp nhận nội mạc tử cung ở bệnh nhân PCOS bằng cách giảm biểu hiện chất vận chuyển glucose 4, dẫn đến cung cấp không đủ glucose trong các tế bào nội mạc tử cung và cuối cùng gây sảy thai. IR không chỉ phá vỡ cân bằng glucose sinh lý mà còn là động lực chính trong quá trình sinh bệnh và tiến triển của các rối loạn chuyển hóa, bao gồm rối loạn lipid máu, bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu, xơ vữa động mạch và đái tháo đường type 2. IR cũng dẫn đến một loạt các phản ứng tế bào ảnh hưởng đến các đặc điểm lâm sàng của PCOS. Cụ thể, IR có thể làm giảm nồng độ globulin liên kết hormone sinh dục gan (sex hormone-binding globulin - SHBG), tăng khả năng phản ứng của tuyến yên với hormone giải phóng gonadotropin (GnRH), kích thích tế bào vỏ sản xuất androgen và làm tăng cả nồng độ testosterone toàn phần và tự do, do đó góp phần gây ra chứng tăng androgen. Đây là một yếu tố quan trọng trong rối loạn chức năng rụng trứng và vô sinh. Nhiều nghiên cứu còn cho thấy IR có thể làm ảnh hưởng đến kết quả sinh sản ở những bệnh nhân mắc hoặc không mắc PCOS đang trải qua quá trình thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON).
Hiện nay, 50-70% phụ nữ mắc PCOS có nguy cơ sảy thai cao, với tình trạng kháng insulin (IR) được xác định là các yếu tố góp phần chính. Các nghiên cứu gần đây cũng làm nổi bật sự giảm liên quan đến IR trong tỷ lệ phôi chất lượng cao (36,8% so với 39,7%, p = 0,005) và sự suy giảm chất lượng noãn do hội chứng chuyển hóa trong PCOS. Các mô hình bệnh cho thấy vi môi trường buồng trứng bị thay đổi, stress chuyển hóa tế bào hạt PCOS và rối loạn chức năng ty thể là những tác nhân phá vỡ tương tác giữa tế bào noãn và tế bào soma, làm suy yếu khả năng giảm phân của noãn. Trong khi PCOS biểu hiện tỷ lệ noãn trưởng thành ở kỳ giữa II (MII) thấp hơn đáng kể (56,42% so với 69,35% và 66,27%, p < 0,001) so với vô sinh do lạc nội mạc tử cung hoặc các yếu tố ống dẫn trứng, kèm theo sự hiện diện của thoi phân bào giảm phân rõ rệt (50,5% so với 66,0% và 62,3%, p < 0,001), các phân tích hình thái mâu thuẫn báo cáo các bất thường về cấu trúc siêu nhỏ tương đương giữa nhóm PCOS và nhóm không mắc PCOS (35,3% so với 25,0%, p = 0,720) và tỷ lệ thụ tinh tương tự (73,6% so với 74,8%). Sự khác biệt trong kết quả của những nghiên cứu này cho thấy rằng sự tổn hại phôi do IR gây ra có thể không phát sinh từ các khiếm khuyết về hình thái noãn mà thông qua các rối loạn chuyển hóa ảnh hưởng đến khả năng phát triển sau thụ tinh.
Mục tiêu
Nghiên cứu này đưa ra giả thuyết rằng mức độ IR ở bệnh nhân PCOS có tương quan nghịch với hiệu quả thụ tinh và tiềm năng phát triển phôi sớm, không phụ thuộc vào tình trạng béo phì hay các phác đồ kích thích buồng trứng. Bằng cách sử dụng một nhóm đối chứng hồi cứu quy mô lớn với các quy trình IVF/ICSI được chuẩn hóa, nghiên cứu này nhằm mục đích phân tích mối quan hệ giữa nồng độ glucose huyết tương lúc đói (fasting plasma glucose-FPG), nồng độ insulin lúc đói (fasting insulin -FINS) và các kết quả phôi học quan trọng, bao gồm tỷ lệ thụ tinh, 2PN và chất lượng phôi nang. Các mô hình hồi quy đa biến, được điều chỉnh theo BMI, số lượng nang thứ cấp (antral follicle count - AFC) và liều lượng gonadotropin, sẽ làm sáng tỏ mối quan hệ giữa mức độ IR và hiệu quả thụ tinh trong quần thể PCOS. Nghiên cứu này nhằm làm rõ tác động của stress chuyển hóa đến giai đoạn sớm nhất của quá trình sinh sản ở bệnh nhân mắc PCOS.
Phương pháp
Tổng cộng 1.768 bệnh nhân PCOS thực hiện TTTON tại Bệnh viện Sản Phụ khoa Trung Sơn Thâm Quyến từ tháng 10 năm 2010 đến tháng 11 năm 2024 được phân thành hai nhóm: nhóm không bị IR (chỉ số HOMA < 2,69, n = 867) và nhóm IR (chỉ số HOMA ≥ 2,69, n = 901). Các đặc điểm ban đầu và kết quả lâm sàng được so sánh giữa các nhóm. Phân tích hồi quy logistic tuyến tính và hồi quy logistic đa biến được thực hiện để đánh giá tác động độc lập của IR lên hiệu quả thụ tinh và kết quả mang thai.
Kết quả

  • Bệnh nhân bị IR biểu hiện BMI cao hơn có ý nghĩa thống kê (25,44 ± 3,55 so với 21,59 ± 3,20, p < 0,001), thời gian vô sinh dài hơn (3,74 ± 2,75 so với 3,25 ± 2,43, p < 0,001), số lượng nang noãn thứ cấp tăng (26,74 ± 10,74 so với 25,05 ± 9,79, p < 0,001) và mức hormone kích thích nang noãn (FSH) cơ bản thấp hơn (9,78 ± 3,25 so với 10,64 ± 3,83, p < 0,001) so với những bệnh nhân không bị IR.

  • Ngoài ra, tỷ lệ thụ tinh (82,02% so với 83,86%, p = 0,005) và tỷ lệ 2PN (81,07% so với 83,96%, p < 0,001) thấp hơn đáng kể ở những bệnh nhân PCOS có IR.

  • Hồi quy tuyến tính chỉ ra rằng IR có tác động nghịch rõ rệt hơn đến tỷ lệ 2PN (B: -2,540, p = 0,009) so với tỷ lệ thụ tinh (B: -0,664, p = 0,490). Phân tích phân nhóm và phân tích tương tác đã chứng minh rằng IR hoạt động như một yếu tố nguy cơ độc lập đối với tình trạng thụ tinh noãn bị suy giảm ở những bệnh nhân PCOS có cân nặng bình thường (B: -22,694, p = 0,011).

  • Không có mối liên hệ có ý nghĩa thống kê nào giữa tình trạng IR và kết quả mang thai lâm sàng hoặc tỷ lệ trẻ sinh sống được quan sát thấy trong các mô hình hồi quy.

Kết luận
IR ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng thụ tinh của noãn và sự phát triển phôi sớm ở những bệnh nhân PCOS cân nặng bình thường thực hiện TTTON. Những ảnh hưởng này có thể là do rối loạn chuyển hóa do IR gây ra, làm suy yếu các quá trình trưởng thành nang noãn và tế bào chất, vốn rất quan trọng đối với khả năng thụ tinh của giao tử. Những phát hiện này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giải quyết rối loạn chuyển hóa ở những quần thể PCOS bị ảnh hưởng bởi IR để tối ưu hóa kết quả điều trị TTTON.

Tài liệu tham khảo:
Zhang R, Wang X, Mo M, Liu Z, Liu S. Insulin resistance as a determinant of fertilization efficiency in polycystic ovary syndrome patients undergoing IVF/ICSI: a retrospective cohort study. Reprod Biol Endocrinol. 2025 Sep 1;23(1):120. doi: 10.1186/s12958-025-01453-5. PMID: 40890764; PMCID: PMC12400747.


Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Khách sạn Equatorial, chủ nhật ngày 23 . 11 . 2025

Năm 2020

Ngày 9 - 10 . 8 . 2025, Vinpearl Landmark 81 (Số 720A Điện BIên Phủ, ...

Năm 2020

Vinpearl Landmark 81, chiều thứ bảy 9 . 8 . 2025 (13:00 - 16:30)

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Mời quý đồng nghiệp đón đọc bản Online của Y học sinh sản ...

Sách “Bài giảng Thực hành Sản khoa” do các giảng viên Bộ ...

Sách ra mắt ngày 11 . 7 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK