Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Sunday 14-09-2025 11:47pm
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế

CNSH. Ngô Hoàng Tín _ IVFVH

Sự gia tăng sản xuất và thải bỏ nhựa dẫn đến hình thành các hạt nhựa kích thước nhỏ (microplastic - vi nhựa) và siêu nhỏ (nanoplastic - hạt nano nhựa). So với vi nhựa, hạt nano nhựa (kích thước <1 μm) được coi là nguy hiểm hơn do kích thước nhỏ dễ thấm qua hàng rào sinh học, diện tích bề mặt lớn tăng khả năng hấp phụ các chất gây độc và tương tác với tế bào, từ đó có thể gây stress oxy hóa, rối loạn chức năng tế bào, phản ứng viêm và các hình thức độc tính sinh học khác. Nhiều nghiên cứu phát hiện các hạt vi nhựa/nano nhựa trong nhiều mô và dịch cơ thể của con người, nhưng tác động của chúng đối với khả năng sinh sản của con người vẫn chưa rõ ràng. Đặc biệt liên quan đến sự hiện diện của hạt nano nhựa trong dịch sinh dục (dịch nang noãn và dịch tinh dịch) và ảnh hưởng lên khả năng thụ tinh còn rất hạn chế. Do vậy, nhóm tác giả tiến hành nghiên cứu nhằm phát hiện sự hiện diện hạt nano nhựa trong dịch nang noãn và dịch tinh dịch của các cặp vợ chồng làm thụ tinh trong ống nghiệm để đánh giá mối liên quan giữa mức độ hạt nano nhựa và các chỉ số sinh sản/IVF.
Nghiên cứu tiến cứu trên 51 cặp vợ chồng thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm tại bệnh viện Sir Run Run Shaw Hospital (Chiết Giang – Trung Quốc) trong giai đoạn tháng từ tháng 3 đến tháng 11 năm 2023. Các cặp vợ chồng được mời tham gia khi đã thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) do vô sinh do nguyên nhân vòi trứng. Tiêu chí lựa chọn đối với bệnh nhân nữ là độ tuổi từ 20 đến 40, với ít nhất 4 noãn đã được chọc hút. Đối với bệnh nhân nam, độ tuổi từ 20 đến 45, với các thông số tinh trùng đáp ứng các yêu cầu của IVF thông thường. Tiêu chí loại trừ bao gồm nhóm bệnh nhân giảm dự trữ buồng trứng (mức AMH < 1,1 ng/mL hoặc AFC < 4), tỷ lệ thụ tinh thấp (tỷ lệ hợp tử đã thụ tinh/noãn trưởng thành < 33%) và các bệnh lý đã biết ở phụ nữ có thể ảnh hưởng đến thai kỳ, chẳng hạn như rối loạn chức năng tuyến giáp, tiểu đường hoặc bệnh gan và thận. Tính chuẩn của phân phối dữ liệu được đánh giá bằng kiểm định Shapiro–Wilk. Phân tích phương sai (ANOVA) được sử dụng để so sánh các nhóm có phân phối chuẩn, trong khi kiểm định Kruskal–Wallis H được sử dụng cho dữ liệu không phân phối chuẩn. Đối với các tập dữ liệu tuân theo phân phối chuẩn, tính đồng nhất của phương sai được đánh giá bằng kiểm định Levene. Để phân tích và so sánh dễ dàng hơn, nhóm tác giả chia các bệnh nhân nam và nữ thành ba nhóm (T1, T2, T3) dựa trên nồng độ polyethylene (PE) và polyvinyl chloride (PVC) của họ, với T1 là nhóm nồng độ thấp nhất và T3 là nhóm nồng độ cao nhất.
Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự suất hiện của hạt nhựa nano, trong đó polyethylene (PE) và polyvinyl chloride (PVC) là hai loại phổ biến nhất, được phát hiện thường xuyên nhất. Trong dịch nang noãn: PE và PVC được phát hiện ở tất cả các mẫu; nồng độ trung bình PE trong dịch nang noãn = 1,21 ± 1,08 μg/g; PVC trong dịch nang noãn = 1,85 ± 1,11 μg/g. Trong dịch tinh dịch: PE = 3,02 ± 1,64 μg/g, PVC = 2,67 ± 2,20 μg/g. Nồng độ PE và PVC trong dịch tinh dịch thường cao hơn trong dịch nang noãn; trong dịch nang noãn, PVC chiếm tỉ lệ lớn hơn so với PE (PVC chiếm khoảng 60% tổng hạt nano nhựa trong dịch nang noãn). Có tương quan thuận giữa nồng độ PE và PVC trong cùng một mẫu (hệ số tương quan Rho khoảng 0,80) nhưng tương quan yếu giữa dịch nang noãn của vợ và dịch tinh dịch của chồng (Rho 0,124–0,256). Qua đó gợi ý yếu tố tiếp xúc cá nhân có vai trò lớn hơn so với yếu tố môi trường sống chung. Ngoài PE và PVC còn có sự xuất hiện của polypropylene và polystyrene với tỷ lệ rất ít (polystyrene chỉ ở 1 mẫu; polypropylene khoảng 17,6% ở dịch tinh dịch).
Mối liên quan giữa PE và PVC với dự trữ buồng trứng & nội tiết: Không thấy liên hệ rõ rệt giữa mức PE/PVC trong dịch nang noãn và đa số chỉ số dự trữ buồng trứng (số nang antral — AFC, hormon chống Mullerian — AMH, hormon kích thích nang noãn — FSH, hormon lutein hóa — LH) ngoại trừ estradiol (E2). Nhóm có mức PE cao nhất trong dịch nang noãn có E2 trung bình thấp hơn (ví dụ T3 = 23,0 pg/mL so với T1 = 31,5 pg/mL, p = 0,012). Sau điều chỉnh, xu hướng giảm E2 theo tăng mức PE trong dịch nang noãn có ý nghĩa thống kê (p-trend = 0,001) và theo PVC cũng có ý nghĩa (p-trend = 0,012). Ngoài ra, mức PE cao hơn trong dịch nang noãn có xu hướng liên quan với AMH cao hơn (p-trend = 0,025) nhưng khác biệt giữa các nhóm không rõ rệt. Nhóm tác giả kết luận hạt nano nhựa có ảnh hưởng rất ít lên dự trữ buồng trứng, nhưng có dấu hiệu ảnh hưởng tới chức năng tế bào hạt (granulosa) biểu hiện bằng nồng độ estradiol giảm.
Mối liên quan giữa PE và PVC với chất lượng tinh trùng: Không có khác biệt rõ ràng giữa các nhóm về nồng độ PE/PVC trong dịch tinh dịch ở các tham số tinh dịch cơ bản (mật độ tinh trùng, tỉ lệ di động tiến tới, tỉ lệ hình dạng bình thường, tỉ lệ phân mảnh DNA). Tuy nhiên, sau khi điều chỉnh, có xu hướng giảm chất lượng tinh trùng khi nồng độ hạt nano nhựa tăng, giảm tỉ lệ di động tiến tới khi nồng độ PVC tăng trong dịch tinh dịch có ý nghĩa thống kê (p-trend = 0,044). Ngoài ra, nhiều p-trend khác nằm quanh mức <0.1 (giảm mật độ, giảm di động tiến tới, tăng tỉ lệ phân mảnh DNA). Do đó, nhóm tác giả cho rằng do kích thước mẫu hạn chế nên chỉ thấy xu hướng chứ chưa thể khẳng định chắc chắn.
PE và PVC ảnh hưởng tới kết quả thụ tinh trong ống nghiệm: Nồng độ hạt nano nhựa trong dịch tinh dịch không có mối liên hệ đáng kể với các chỉ số IVF. Nồng độ PE và PVC trong dịch nang noãn cao (T2, T3) có mối tương quan nghịch với tỉ lệ thụ tinh. Cụ thể, đối với PE trong dịch nang noãn, nhóm T2 và T3 có tỉ lệ 2PN thấp hơn T1 (p = 0,0003 và p = 0,007); tương tự với PVC (p = 0,009 và p = 0,008). Đồng thời, tỉ lệ phôi khả dụng trên mỗi noãn cũng giảm ở nhóm có PE cao trong dịch nang noãn (p = 0,014). Tuy nhiên, không phát hiện mối liên hệ đáng kể giữa nồng độ hạt nano nhựa (ở vợ hoặc chồng) với tỉ lệ chuyển phôi thành công (hCG dương) hay tỉ lệ thai lâm sàng sau điều chỉnh các biến số.
Nhóm tác giả cho rằng tỉ lệ thụ tinh giảm có thể do hạt nano nhựa gây stress oxy hóa, độc tính lên tế bào hạt (granulosa) làm giảm sản xuất estradiol, ảnh hưởng chất lượng noãn; hoặc hạt nano nhựa có thể tác động trực tiếp lên bề mặt noãn hoặc tương tác giữa tinh trùng và noãn (cơ chế vật lý/hoá học) gây giảm khả năng thụ tinh. Các nghiên cứu trên động vật và nuôi cấy tế bào cho thấy hạt nano nhựa gây apoptosis tế bào hạt, rối loạn chức năng ty thể, tăng các gốc oxy phản ứng.
Bên cạnh đó nghiên cứu có một số hạn chế như: cỡ mẫu còn hạn chế (n=51), nên nhiều kết luận mang tính gợi ý; khả năng nhiễm chéo từ vật tư nhựa dù đã kiểm soát; phương pháp phân tích không cho thông tin về kích thước/số lượng/hình dạng hạt là những yếu tố quan trọng để hiểu cơ chế độc tính. Ngoài ra, nhóm bệnh nhân từ IVF có thể khác với tổng thể dân số về nhiều khía cạnh (ví dụ: can thiệp y tế, lối sống, mức độ phơi nhiễm môi trường).
Từ những kết quả trên, nghiên cứu cho thấy có sự tồn tại của hạt nano nhựa (đặc biệt PE và PVC) trong dịch nang noãn và dịch tinh dịch của người. Hạt nano nhựa có khả năng làm giảm tỉ lệ thụ tinh khi hiện diện trong dịch nang noãn ở nồng độ cao và có xu hướng làm giảm chất lượng tinh trùng khi hiện diện trong tinh dịch. Tuy nhiên, không thấy mối liên hệ rõ rệt với tỉ lệ làm tổ thành công hay tỉ lệ thai lâm sàng. Cần các nghiên cứu khảo sát lớn hơn để đánh giá đầy đủ rủi ro của hạt nano nhựa đối với khả năng sinh sản ở người.

Từ khóa: Hạt nhựa nano, Polyethylene, Polyvinyl Chloride, PE, PVC
 
Nguồn: Kong, F., Fang, L., Gui, Y., Lan, H., Zhao, P., Zhang, Y., Jiang, L., Zhang, S., & Tong, X. (2025). Polyethylene and Polyvinyl Chloride Nanoplastics in Human Follicular Fluid and Seminal Plasma: Impact on Fertilization and Sperm Quality. ACS nano, 19(30), 27159–27172. https://doi.org/10.1021/acsnano.5c00918
 


Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Khách sạn Equatorial, chủ nhật ngày 23 . 11 . 2025

Năm 2020

Ngày 9 - 10 . 8 . 2025, Vinpearl Landmark 81 (Số 720A Điện BIên Phủ, ...

Năm 2020

Vinpearl Landmark 81, chiều thứ bảy 9 . 8 . 2025 (13:00 - 16:30)

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Mời quý đồng nghiệp đón đọc bản Online của Y học sinh sản ...

Sách “Bài giảng Thực hành Sản khoa” do các giảng viên Bộ ...

Sách ra mắt ngày 11 . 7 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK