Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Wednesday 17-09-2025 3:33am
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế

Kỹ sư Nguyễn Thị Nguyệt
Đơn vị HTSS IVFMD FAMILY, BVĐK Gia Đình, Đà Nẵng

Trong nhiều thập kỷ qua, hàng nghìn nghiên cứu đã được thực hiện nhằm xác định các yếu tố có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ thành công của thụ tinh trong ống nghiệm (IVF), bao gồm cả giai đoạn chuẩn bị, chuyển phôi và theo dõi sau chuyển phôi. Theo khuyến cáo của Hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ (ASRM, 2017), một số yếu tố giúp cải thiện tỷ lệ có thai bao gồm: dẫn đường bằng siêu âm qua bụng khi chuyển phôi, loại bỏ chất nhầy cổ tử cung, sử dụng ống chuyển phôi mềm, đặt phôi ở vị trí giữa hoặc trên của buồng tử cung (cách đáy tử cung ít nhất 1 cm), và cho bệnh nhân vận động ngay sau chuyển phôi. Tuy nhiên, trong bối cảnh du lịch y tế phát triển mạnh, nhiều bệnh nhân phải di chuyển bằng đường hàng không sau khi chuyển phôi. Một nghiên cứu của Banerjee và cộng sự (2017) trên 100 phụ nữ vô sinh cho thấy nhóm bệnh nhân bay về nước sau 3 ngày có tỷ lệ có thai là 60,4%, cao hơn nhóm ở lại địa phương (40,4%, p = 0,045). Dù bay sau chuyển phôi được cho là an toàn, vẫn thiếu các bằng chứng khoa học rõ ràng về tác động của việc này lên quá trình làm tổ. Do đó, nghiên cứu này nhằm đánh giá liệu việc di chuyển bằng máy bay sau chuyển phôi có ảnh hưởng đến kết quả điều trị IVF hay không.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu hồi cứu đơn trung tâm được thực hiện tại phòng khám hỗ trợ sinh sản Originare Medicina Reprodutiva (São Paulo, Brazil) từ tháng 01/2019 đến tháng 03/2022, với tổng cộng 2.135 chu kỳ chuyển phôi. Đối tượng là phụ nữ từ 18–42 tuổi, chia thành hai nhóm: nhóm có khả năng di chuyển bằng đường hàng không sau chuyển phôi (nhóm 2) và nhóm không di chuyển (nhóm 1), dựa trên khoảng cách nơi cư trú (>400 km). Loại trừ các trường hợp sử dụng noãn hoặc phôi hiến tặng. Dữ liệu phân tích bằng hồi quy Poisson có điều chỉnh theo tuổi và chỉ định điều trị, sử dụng phần mềm SAS 9.4, mức ý nghĩa thống kê p < 0,05.
Kết quả 

  • Nghiên cứu bao gồm tổng cộng 2.135 chu kỳ chuyển phôi, trong đó nhóm 1 (không di chuyển bằng máy bay) có 1.752 trường hợp và nhóm 2 (di chuyển bằng máy bay sau chuyển phôi trước khi xét nghiệm β-hCG) có 383 trường hợp, chiếm 17,94%.

  • Các biến số nhân khẩu học, số lượng và chất lượng phôi chuyển, chỉ định điều trị và kết quả lâm sàng đều được phân tích. Không có sự khác biệt thống kê giữa hai nhóm về đặc điểm dân số và chu kỳ (p > 0,05). Số phôi trung bình được chuyển là 1,71 ở nhóm 1 và 1,59 ở nhóm 2; tỷ lệ chuyển ít nhất một phôi loại tốt lần lượt là 22,60% và 20,97%. Chuyển phôi tươi chiếm 15,53% ở nhóm 1 và 18,54% ở nhóm 2.

  • Về kết quả điều trị, tỷ lệ có thai là 61,99% ở nhóm 1 và 62,14% ở nhóm 2 (p=0,94), trong khi tỷ lệ làm tổ là 34,58% và 38,65% (p=0,28), không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ sảy thai cao hơn nhẹ ở nhóm 2 (32,50% so với 28,51%, p=0,32). Phân tích riêng các ca chuyển một phôi hoặc phôi tốt cũng không cho thấy sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ có thai, làm tổ hay sảy thai (p>0,05 ở tất cả các phép so sánh). Tỷ số nguy cơ tương đối của sảy thai khi dùng phôi tốt là 0,87 (p=0,77).

Kết luận
Nghiên cứu hồi cứu này được tiến hành tại một trung tâm hỗ trợ sinh sản duy nhất với cỡ mẫu lớn, đảm bảo tính đồng nhất trong toàn bộ quy trình điều trị, bao gồm chuẩn bị niêm mạc tử cung, nuôi cấy phôi, kỹ thuật đông – rã và chuyển phôi. Dữ liệu phân tích cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ làm tổ và kết quả điều trị giữa nhóm bệnh nhân di chuyển bằng đường hàng không sau chuyển phôi và nhóm không di chuyển. Mặc dù còn tồn tại một số hạn chế, như thiếu kiểm soát về thời điểm bay, thời lượng chuyến bay, số lần quá cảnh và các yếu tố ngoại cảnh như nhiễu loạn không khí, kết quả thu được vẫn cho thấy rằng việc đi máy bay sau chuyển phôi không làm suy giảm hiệu quả lâm sàng. Phát hiện này gợi mở khả năng cho phép bệnh nhân trở về nhà sau chuyển phôi mà không làm tăng rủi ro thất bại điều trị, đồng thời có thể góp phần giảm thiểu căng thẳng tâm lý và chi phí. Tuy nhiên, các nghiên cứu tiến cứu, thiết kế đối chứng ngẫu nhiên là cần thiết để xác nhận chắc chắn kết luận này.
Nguồn tham khảo
Dias JA Jr, Izzo CR, Fassolas G, Henrique LF, Wajman DS. Does flying after embryo transfer impact implantation? JBRA Assist Reprod. 2025 May 29. doi: 10.5935/1518-0557.20250005. Epub ahead of print. PMID: 40440475.


Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Khách sạn Equatorial, chủ nhật ngày 23 . 11 . 2025

Năm 2020

Ngày 9 - 10 . 8 . 2025, Vinpearl Landmark 81 (Số 720A Điện BIên Phủ, ...

Năm 2020

Vinpearl Landmark 81, chiều thứ bảy 9 . 8 . 2025 (13:00 - 16:30)

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Mời quý đồng nghiệp đón đọc bản Online của Y học sinh sản ...

Sách “Bài giảng Thực hành Sản khoa” do các giảng viên Bộ ...

Sách ra mắt ngày 11 . 7 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK