Tin tức
on Tuesday 28-11-2023 1:27pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Trần Như Uyên - IVFVH
Giới thiệu
Tỷ lệ mắc vô sinh trên toàn thế giới ước tính khoảng 10-15%. Kỹ thuật bơm tinh trùng vào buồng tử cung (IUI) được xem là giải pháp đầu tiên cho những trường hợp vô sinh vì đây là một kỹ thuật đơn giản, ít rủi ro và chi phí thực hiện thấp. Kích thích buồng trứng trong IUI giúp tăng cơ hội mang thai lâm sàng so với chu kỳ tự nhiên. Bên cạnh đó, tinh trùng được lọc rửa làm tăng số lượng đồng thời thu hồi những tinh trùng di động tốt nhất. Ngoài việc cải thiện những yếu tố đó, IUI còn loại bỏ cơ chế lọc của cổ tử cung, nhiều nghiên cứu trước đây được chứng minh là làm tăng tỷ lệ mang thai.
Tỷ lệ mang thai trung bình trên mỗi chu kỳ IUI vào khoảng 9%. Tỷ lệ có thai, thay đổi từ thấp 5% đến cao 70% được cho là do có nhiều biến số góp phần như tính không đồng nhất về dân số, phác đồ kích thích buồng trứng khác nhau. Các yếu tố góp phần vào tỷ lệ thành công của IUI rất nhiều bao gồm tuổi của người phụ nữ, nguyên nhân vô sinh, số lượng nang trứng thu được, nồng độ Estradiol, các thông số tinh dịch (nồng độ, khả năng di động), thời gian vô sinh, độ dày nội mạc tử cung và số chu kỳ thực hiện IUI. Những yếu tố này đều góp phần đến thành công của IUI.
Các báo cáo trước đây khuyến nghị nên thực hiện IUI từ 3 đến 6 chu kỳ kết hợp với kích thích buồng trứng đối với phụ nữ nhỏ hơn 40 tuổi bị vô sinh chưa rõ nguyên nhân (CRNN). Tuy nhiên, phác đồ điều trị còn phụ thuộc vào nhu cầu của từng bệnh nhân và đặc biệt ảnh hưởng đến tinh thần của bệnh nhân khi thực hiện IUI nhiều lần. Do đó, nghiên cứu của Anca Huniadi và cộng sự (2023) đã thực hiện nhằm tìm ra những yếu tố có thể dự đoán tỷ lệ thành công của kỹ thuật IUI và xác định xem các cặp vợ chồng nên được tư vấn về quy trình IUI hay IVF như phương pháp điều trị đầu tiên.
Đối tượng và phương pháp
Nghiên cứu hồi cứu được thực hiện tại một phòng khám sinh sản cấp đại học ở Oradea, Romania. Đối tượng nghiên cứu bao gồm các cặp vợ chồng có độ tuổi tối thiểu là 18, đã cố gắng có con ít nhất một năm, người vợ có ít nhất một ống dẫn trứng bình thường, không có nhiễm trùng vùng chậu cấp tính và xét nghiệm tế bào học Babes-Papanicolau bình thường và ảnh chụp tinh trùng phải có tổng số lượng tinh trùng ít nhất là 5 triệu/mL trong khoảng thời gian từ tháng 1 năm 2015 đến tháng 10 năm 2020. Loại trừ những bệnh nhân bị tắc nghẽn ống dẫn trứng hai bên, lạc nội mạc tử cung từ trung bình đến nặng và vô sinh do yếu tố nam nặng (số lượng tinh trùng sau lọc rửa <1 triệu/mL).
Các bệnh nhân được chia làm hai nhóm: nhóm có thai (dương tính) và nhóm không có thai (âm tính) sau khi thực hiện IUI và đánh giá các yếu tố liên quan. Nguyên nhân vô sinh ở nhóm (1) là 20% nữ, 28,6% nam, 14,3% cả nam-nữ và 37,1% CRNN; trong khi ở nhóm (2) là 25,7% nữ, 26,6% nam, 20,7% cả nam-nữ và 27% CRNN.
Kết quả
Phân tích mô tả các biến liên quan đến kết quả thụ tinh
Độ tuổi của bệnh nhân không có ý nghĩa thống kê ở mức giới hạn tiêu chuẩn 5%, chỉ ở mức 10%, giống như nồng độ tinh trùng sau lọc rửa. Có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm theo độ tuổi của chồng (p = 0,012), thời gian vô sinh (p = 0,018), độ dày nội mạc tử cung (p = 0,035) và tinh dịch (p = 0,046).
Có 27% bệnh nhân có kết quả âm tính và 37% bệnh nhân có kết quả dương tính nguyên nhân vô sinh ban đầu là không rõ nguyên nhân.
Phân tích mô tả các biến trong vô sinh
Đối với tuổi ở bệnh nhân nữ, cứ mỗi năm tuổi tăng thêm sẽ làm giảm khả năng mang thai (Exp (B) = 0,93). Độ tuổi của người chồng cũng có ảnh hưởng tương tự; người chồng lớn hơn 1 tuổi có xác suất đóng góp vào kết quả tích cực thấp hơn so với năm trước với điều kiện là tất cả các chỉ số hai lần kiểm tra đều giống nhau (Exp(B) = 0,906).
Phân tích mô tả các chỉ số sinh
Chỉ số thứ nhất được mô tả là tuổi và thời gian vô sinh, chỉ số thứ hai là nồng độ tinh trùng, chỉ số thứ ba là khả năng di động của tinh trùng tiến tới nhanh (A) và tiến tới chậm (B) và thứ tư là chỉ số về độ dày nội mạc tử cung.
Kết quả là chỉ số nồng độ tinh trùng có tác động cao nhất đến khả năng dự đoán, với p = 0,009 (p<0,01 có ý nghĩa thống kê, khoảng tin cậy CI 99%). Các chỉ số khác: độ dày nội mạc tử cung với p = 0,005 và thời gian sinh sản tính theo năm, p = 0,042, có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, giá trị p rất gần với mức tới hạn 5% cho thấy tỷ lệ có kết quả dương tính cao hơn 1,44 lần đối với mỗi milimet độ dày nội mạc tử cung tăng thêm. Chỉ số về độ tuổi và thời gian có ý nghĩa thống kê và có tác động tiêu cực cụ thể là tỷ lệ có thai thấp hơn khi độ tuổi và thời gian gian vô sinh tăng lên. Tác động cao nhất thuộc về chỉ số nồng độ tinh trùng, nồng độ cao sẽ làm tăng khả năng mang thai lên 1,573 lần.
Kết luận
Các nghiên cứu dự đoán khả năng sinh sản là cần thiết và nên áp dụng tiên lượng cá nhân cho từng cặp vợ chồng để điều chỉnh kỳ vọng của họ và tư vấn tốt hơn. Các thông số tìm thấy trong nghiên cứu có mối tương quan đáng kể với kết quả IUI dương tính và các biến số khác cũng có thể có ảnh hưởng tích cực đến sự thành công của IUI và cần được nghiên cứu thêm.
Nguồn: Anca Huniadi, Erika Bimbo-Szuhai, Mihai Botea et al. Fertility Predictors in Intrauterine Inseminaton (IUI). 23 February 2023.
Giới thiệu
Tỷ lệ mắc vô sinh trên toàn thế giới ước tính khoảng 10-15%. Kỹ thuật bơm tinh trùng vào buồng tử cung (IUI) được xem là giải pháp đầu tiên cho những trường hợp vô sinh vì đây là một kỹ thuật đơn giản, ít rủi ro và chi phí thực hiện thấp. Kích thích buồng trứng trong IUI giúp tăng cơ hội mang thai lâm sàng so với chu kỳ tự nhiên. Bên cạnh đó, tinh trùng được lọc rửa làm tăng số lượng đồng thời thu hồi những tinh trùng di động tốt nhất. Ngoài việc cải thiện những yếu tố đó, IUI còn loại bỏ cơ chế lọc của cổ tử cung, nhiều nghiên cứu trước đây được chứng minh là làm tăng tỷ lệ mang thai.
Tỷ lệ mang thai trung bình trên mỗi chu kỳ IUI vào khoảng 9%. Tỷ lệ có thai, thay đổi từ thấp 5% đến cao 70% được cho là do có nhiều biến số góp phần như tính không đồng nhất về dân số, phác đồ kích thích buồng trứng khác nhau. Các yếu tố góp phần vào tỷ lệ thành công của IUI rất nhiều bao gồm tuổi của người phụ nữ, nguyên nhân vô sinh, số lượng nang trứng thu được, nồng độ Estradiol, các thông số tinh dịch (nồng độ, khả năng di động), thời gian vô sinh, độ dày nội mạc tử cung và số chu kỳ thực hiện IUI. Những yếu tố này đều góp phần đến thành công của IUI.
Các báo cáo trước đây khuyến nghị nên thực hiện IUI từ 3 đến 6 chu kỳ kết hợp với kích thích buồng trứng đối với phụ nữ nhỏ hơn 40 tuổi bị vô sinh chưa rõ nguyên nhân (CRNN). Tuy nhiên, phác đồ điều trị còn phụ thuộc vào nhu cầu của từng bệnh nhân và đặc biệt ảnh hưởng đến tinh thần của bệnh nhân khi thực hiện IUI nhiều lần. Do đó, nghiên cứu của Anca Huniadi và cộng sự (2023) đã thực hiện nhằm tìm ra những yếu tố có thể dự đoán tỷ lệ thành công của kỹ thuật IUI và xác định xem các cặp vợ chồng nên được tư vấn về quy trình IUI hay IVF như phương pháp điều trị đầu tiên.
Đối tượng và phương pháp
Nghiên cứu hồi cứu được thực hiện tại một phòng khám sinh sản cấp đại học ở Oradea, Romania. Đối tượng nghiên cứu bao gồm các cặp vợ chồng có độ tuổi tối thiểu là 18, đã cố gắng có con ít nhất một năm, người vợ có ít nhất một ống dẫn trứng bình thường, không có nhiễm trùng vùng chậu cấp tính và xét nghiệm tế bào học Babes-Papanicolau bình thường và ảnh chụp tinh trùng phải có tổng số lượng tinh trùng ít nhất là 5 triệu/mL trong khoảng thời gian từ tháng 1 năm 2015 đến tháng 10 năm 2020. Loại trừ những bệnh nhân bị tắc nghẽn ống dẫn trứng hai bên, lạc nội mạc tử cung từ trung bình đến nặng và vô sinh do yếu tố nam nặng (số lượng tinh trùng sau lọc rửa <1 triệu/mL).
Các bệnh nhân được chia làm hai nhóm: nhóm có thai (dương tính) và nhóm không có thai (âm tính) sau khi thực hiện IUI và đánh giá các yếu tố liên quan. Nguyên nhân vô sinh ở nhóm (1) là 20% nữ, 28,6% nam, 14,3% cả nam-nữ và 37,1% CRNN; trong khi ở nhóm (2) là 25,7% nữ, 26,6% nam, 20,7% cả nam-nữ và 27% CRNN.
Kết quả
Phân tích mô tả các biến liên quan đến kết quả thụ tinh
Độ tuổi của bệnh nhân không có ý nghĩa thống kê ở mức giới hạn tiêu chuẩn 5%, chỉ ở mức 10%, giống như nồng độ tinh trùng sau lọc rửa. Có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm theo độ tuổi của chồng (p = 0,012), thời gian vô sinh (p = 0,018), độ dày nội mạc tử cung (p = 0,035) và tinh dịch (p = 0,046).
Có 27% bệnh nhân có kết quả âm tính và 37% bệnh nhân có kết quả dương tính nguyên nhân vô sinh ban đầu là không rõ nguyên nhân.
Phân tích mô tả các biến trong vô sinh
Đối với tuổi ở bệnh nhân nữ, cứ mỗi năm tuổi tăng thêm sẽ làm giảm khả năng mang thai (Exp (B) = 0,93). Độ tuổi của người chồng cũng có ảnh hưởng tương tự; người chồng lớn hơn 1 tuổi có xác suất đóng góp vào kết quả tích cực thấp hơn so với năm trước với điều kiện là tất cả các chỉ số hai lần kiểm tra đều giống nhau (Exp(B) = 0,906).
Phân tích mô tả các chỉ số sinh
Chỉ số thứ nhất được mô tả là tuổi và thời gian vô sinh, chỉ số thứ hai là nồng độ tinh trùng, chỉ số thứ ba là khả năng di động của tinh trùng tiến tới nhanh (A) và tiến tới chậm (B) và thứ tư là chỉ số về độ dày nội mạc tử cung.
Kết quả là chỉ số nồng độ tinh trùng có tác động cao nhất đến khả năng dự đoán, với p = 0,009 (p<0,01 có ý nghĩa thống kê, khoảng tin cậy CI 99%). Các chỉ số khác: độ dày nội mạc tử cung với p = 0,005 và thời gian sinh sản tính theo năm, p = 0,042, có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, giá trị p rất gần với mức tới hạn 5% cho thấy tỷ lệ có kết quả dương tính cao hơn 1,44 lần đối với mỗi milimet độ dày nội mạc tử cung tăng thêm. Chỉ số về độ tuổi và thời gian có ý nghĩa thống kê và có tác động tiêu cực cụ thể là tỷ lệ có thai thấp hơn khi độ tuổi và thời gian gian vô sinh tăng lên. Tác động cao nhất thuộc về chỉ số nồng độ tinh trùng, nồng độ cao sẽ làm tăng khả năng mang thai lên 1,573 lần.
Kết luận
Các nghiên cứu dự đoán khả năng sinh sản là cần thiết và nên áp dụng tiên lượng cá nhân cho từng cặp vợ chồng để điều chỉnh kỳ vọng của họ và tư vấn tốt hơn. Các thông số tìm thấy trong nghiên cứu có mối tương quan đáng kể với kết quả IUI dương tính và các biến số khác cũng có thể có ảnh hưởng tích cực đến sự thành công của IUI và cần được nghiên cứu thêm.
Nguồn: Anca Huniadi, Erika Bimbo-Szuhai, Mihai Botea et al. Fertility Predictors in Intrauterine Inseminaton (IUI). 23 February 2023.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Ảnh hưởng của béo phì ở phụ nữ đến phôi trong quá trình thủy tinh hóa và kết quả thai: Một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu - Ngày đăng: 24-11-2023
Số phận phôi nang hình thành trong khoảng thời gian từ ngày 4 đến ngày 7 đã khác biệt ngay từ giai đoạn thụ tinh - Ngày đăng: 24-11-2023
Kết quả ICSI từ tinh trùng thu nhận bằng m-TESE ở bệnh nhân vô tinh không tắc nghẽn: Một nghiên cứu hồi cứu - Ngày đăng: 24-11-2023
Nhận diện bệnh nhân có thể được thực hiện R.ICSI - Ngày đăng: 06-11-2023
Báo cáo 1 trường hợp trẻ sinh sống khỏe mạnh sau chuyển phôi nang từ hợp tử 4PN - Ngày đăng: 06-11-2023
Dự đoán tỉ lệ phôi khảm được cân nhắc để chuyển - Ngày đăng: 06-11-2023
Các biến thể hai alen mới trong ACTL7A có liên quan đến vô sinh ở nam giới và thất bại thụ tinh hoàn toàn - Ngày đăng: 06-11-2023
Chất lượng phôi nang và kết quả chu sinh: một nghiên cứu quan sát đa trung tâm đa quốc gia - Ngày đăng: 06-11-2023
Sử dụng phôi bị ảnh hưởng với mục đích làm tham chiêú trong xét nghiệm di truyền tiền làm tổ cho bệnh Thalassemia - Ngày đăng: 04-11-2023
Mối liên hệ giữa mùa thực hiện chọc hút noãn và kết quả chuyển phôi trữ - Ngày đăng: 31-10-2023
Đánh giá ảnh hưởng lâu dài của tiêm vaccine COVID-19 đến nguy cơ sẩy thai - Ngày đăng: 31-10-2023
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK