Tin tức
on Friday 24-11-2023 10:12am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Trần Như Uyên- IVFVH
Giới thiệu
Thủy tinh hóa ngày càng được sử dụng phổ biến trong công nghệ hỗ trợ sinh sản, kỹ thuật này giúp làm lạnh một cách nhanh chóng mà không hình thành các tinh thể đá nhưng cũng có thể gây hại cho phôi. Theo nghiên cứu của Cavoretto và cộng sự (2016) cho thấy phụ nữ chuyển phôi trữ có các chỉ số về độ mờ da gáy và nồng độ b-hCG cao bất thường. Đã có những phương án thay đổi nhằm giảm thiểu những rủi ro bằng cách sử dụng chất bảo quản lạnh có nồng độ và mức độ độc tính thấp hơn, cải thiện tốc độ đông lạnh và rã đông. Tuy nhiên, những tác động tiêu cực đến kết quả IVF/ICSI vẫn còn tồn tại.
Gần đây, béo phì đang gia tăng ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Nghiên cứu cho thấy béo phì có liên quan đến việc tăng các bệnh như: tiểu đường, huyết áp cao, gan nhiễm mỡ và đặc biệt ảnh hưởng đến khả năng mang thai.
Lipid là phân tử chính trong tế bào và đóng vai trò quan trọng đến sự phát triển của phôi. Các nghiên cứu trước đây chứng minh rằng chuột béo phì có hàm lượng lipid cao và gây bất lợi cho sự phát triển của phôi. Tương tự, những nghiên cứu trên phôi lợn, bò cũng chỉ ra rằng lipid cao làm tổn thương đến phôi trong quá trình thủy tinh hóa. Tuy nhiên, chưa có nhiều nghiên cứu trên người. Năm 2023, một nghiên cứu được thực hiện tại Trung Quốc đã đánh giá ảnh hưởng của béo phì ở phụ nữ đến sự phát triển của phôi khi thực hiện thủy tinh hóa.
Đối tượng và thiết kế nghiên cứu
Một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu từ hai bệnh viện ở Trung Quốc được thực hiện từ tháng 1 năm 2014 đến tháng 1 năm 2021. Tổng cộng có 44.773 chu kỳ IVF/ICSI trong đó 27.797 được chuyển phôi tươi và 16.976 được chuyển phôi trữ với độ tuổi của phụ nữ trong khoảng từ 20–40 tuổi.
Nghiên cứu được chia thành 4 nhóm: nhóm nhẹ cân (BMI < 18,5 kg/m2 ), nhóm cân nặng bình thường (BMI từ 18,5–23,9 kg/m2), nhóm thừa cân (BMI từ 24–27,9 kg/m2) và nhóm béo phì (BMI ≥ 28 kg/m2). Các kết quả chính bao gồm tỷ lệ có thai lâm sàng, tỷ lệ sinh sống, và tỷ lệ sẩy thai.
Noãn đã thụ tinh sẽ được nuôi cấy ở 37oC với 6% CO2 và 5% O2. Vào ngày thứ 3, phôi được đánh giá theo tiêu chí của Cummins, phôi loại 1 và loại 2 là phôi chất lượng tốt. Vào ngày thứ 5/6, chất lượng phôi nang được đánh giá theo tiêu chí của Gardner. Ở giai đoạn này, phôi nang có cấp độ >3BB được coi là chất lượng tốt.
Kết quả
Tổng cộng có 27.797 chu kỳ chuyển phôi tươi, bao gồm 3342 bệnh nhân nhẹ cân, 18.884 bệnh nhân bình thường, 4638 bệnh nhân thừa cân và 933 bệnh nhân béo phì.
Tổng cộng có 16.976 chu kỳ chuyển phôi trữ, bao gồm 2136 bệnh nhân nhẹ cân, 11.723 bệnh nhân bình thường, 2622 bệnh nhân thừa cân và 495 bệnh nhân béo phì.
Nhóm chuyển phôi tươi:
- Nhóm bệnh nhân béo phì cho thấy số lượng phôi chất lượng tốt và số phôi chuyển thấp hơn so với các nhóm còn lại.
- Tỷ lệ có thai lâm sàng, tỷ lệ sinh sống và sảy thai của nhóm nhẹ cân, thừa cân và béo phì không có sự khác biệt đáng kể so với nhóm BMI bình thường.
Nhóm chuyển phôi trữ:
- Tỷ lệ thai lâm sàng, tỷ lệ sinh sống và sảy thai ở nhóm nhẹ cân và nhóm thừa cân không có sự khác biệt đáng kể so với nhóm có BMI bình thường.
- Đối với nhóm béo phì tỷ lệ mang thai lâm sàng cao hơn so với nhóm BMI bình thường (49,9% so với 45,64%) đồng thời tỷ lệ sảy thai cũng cao hơn (20,24% so với 15,29%).
Kết luận
Kết quả trên cho thấy thừa cân và béo phì ở phụ nữ có thể đóng vai trò bảo vệ đối với những tổn thương do thủy tinh hóa. Phát hiện trong nghiên cứu này trái ngược với những nghiên cứu trước đây cho rằng hàm lượng lipid cao trong phôi lợn/bò có thể làm tổn thương đến phôi khi thực hiện thủy tinh hóa. Béo phì ở phụ nữ không làm xấu đi kết quả của IVF/ICSI, đặc biệt ở nhóm chuyển phôi trữ.
Nguồn: Zhonghong Zeng, Jingjing Li, Xi Wang et al. Influence ofmaternal obesity on embryonic vitrification injury and subsequent pregnancy outcomes: A retrospective cohort study. 12 September 2023.
Giới thiệu
Thủy tinh hóa ngày càng được sử dụng phổ biến trong công nghệ hỗ trợ sinh sản, kỹ thuật này giúp làm lạnh một cách nhanh chóng mà không hình thành các tinh thể đá nhưng cũng có thể gây hại cho phôi. Theo nghiên cứu của Cavoretto và cộng sự (2016) cho thấy phụ nữ chuyển phôi trữ có các chỉ số về độ mờ da gáy và nồng độ b-hCG cao bất thường. Đã có những phương án thay đổi nhằm giảm thiểu những rủi ro bằng cách sử dụng chất bảo quản lạnh có nồng độ và mức độ độc tính thấp hơn, cải thiện tốc độ đông lạnh và rã đông. Tuy nhiên, những tác động tiêu cực đến kết quả IVF/ICSI vẫn còn tồn tại.
Gần đây, béo phì đang gia tăng ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Nghiên cứu cho thấy béo phì có liên quan đến việc tăng các bệnh như: tiểu đường, huyết áp cao, gan nhiễm mỡ và đặc biệt ảnh hưởng đến khả năng mang thai.
Lipid là phân tử chính trong tế bào và đóng vai trò quan trọng đến sự phát triển của phôi. Các nghiên cứu trước đây chứng minh rằng chuột béo phì có hàm lượng lipid cao và gây bất lợi cho sự phát triển của phôi. Tương tự, những nghiên cứu trên phôi lợn, bò cũng chỉ ra rằng lipid cao làm tổn thương đến phôi trong quá trình thủy tinh hóa. Tuy nhiên, chưa có nhiều nghiên cứu trên người. Năm 2023, một nghiên cứu được thực hiện tại Trung Quốc đã đánh giá ảnh hưởng của béo phì ở phụ nữ đến sự phát triển của phôi khi thực hiện thủy tinh hóa.
Đối tượng và thiết kế nghiên cứu
Một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu từ hai bệnh viện ở Trung Quốc được thực hiện từ tháng 1 năm 2014 đến tháng 1 năm 2021. Tổng cộng có 44.773 chu kỳ IVF/ICSI trong đó 27.797 được chuyển phôi tươi và 16.976 được chuyển phôi trữ với độ tuổi của phụ nữ trong khoảng từ 20–40 tuổi.
Nghiên cứu được chia thành 4 nhóm: nhóm nhẹ cân (BMI < 18,5 kg/m2 ), nhóm cân nặng bình thường (BMI từ 18,5–23,9 kg/m2), nhóm thừa cân (BMI từ 24–27,9 kg/m2) và nhóm béo phì (BMI ≥ 28 kg/m2). Các kết quả chính bao gồm tỷ lệ có thai lâm sàng, tỷ lệ sinh sống, và tỷ lệ sẩy thai.
Noãn đã thụ tinh sẽ được nuôi cấy ở 37oC với 6% CO2 và 5% O2. Vào ngày thứ 3, phôi được đánh giá theo tiêu chí của Cummins, phôi loại 1 và loại 2 là phôi chất lượng tốt. Vào ngày thứ 5/6, chất lượng phôi nang được đánh giá theo tiêu chí của Gardner. Ở giai đoạn này, phôi nang có cấp độ >3BB được coi là chất lượng tốt.
Kết quả
Tổng cộng có 27.797 chu kỳ chuyển phôi tươi, bao gồm 3342 bệnh nhân nhẹ cân, 18.884 bệnh nhân bình thường, 4638 bệnh nhân thừa cân và 933 bệnh nhân béo phì.
Tổng cộng có 16.976 chu kỳ chuyển phôi trữ, bao gồm 2136 bệnh nhân nhẹ cân, 11.723 bệnh nhân bình thường, 2622 bệnh nhân thừa cân và 495 bệnh nhân béo phì.
Nhóm chuyển phôi tươi:
- Nhóm bệnh nhân béo phì cho thấy số lượng phôi chất lượng tốt và số phôi chuyển thấp hơn so với các nhóm còn lại.
- Tỷ lệ có thai lâm sàng, tỷ lệ sinh sống và sảy thai của nhóm nhẹ cân, thừa cân và béo phì không có sự khác biệt đáng kể so với nhóm BMI bình thường.
Nhóm chuyển phôi trữ:
- Tỷ lệ thai lâm sàng, tỷ lệ sinh sống và sảy thai ở nhóm nhẹ cân và nhóm thừa cân không có sự khác biệt đáng kể so với nhóm có BMI bình thường.
- Đối với nhóm béo phì tỷ lệ mang thai lâm sàng cao hơn so với nhóm BMI bình thường (49,9% so với 45,64%) đồng thời tỷ lệ sảy thai cũng cao hơn (20,24% so với 15,29%).
Kết luận
Kết quả trên cho thấy thừa cân và béo phì ở phụ nữ có thể đóng vai trò bảo vệ đối với những tổn thương do thủy tinh hóa. Phát hiện trong nghiên cứu này trái ngược với những nghiên cứu trước đây cho rằng hàm lượng lipid cao trong phôi lợn/bò có thể làm tổn thương đến phôi khi thực hiện thủy tinh hóa. Béo phì ở phụ nữ không làm xấu đi kết quả của IVF/ICSI, đặc biệt ở nhóm chuyển phôi trữ.
Nguồn: Zhonghong Zeng, Jingjing Li, Xi Wang et al. Influence ofmaternal obesity on embryonic vitrification injury and subsequent pregnancy outcomes: A retrospective cohort study. 12 September 2023.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Số phận phôi nang hình thành trong khoảng thời gian từ ngày 4 đến ngày 7 đã khác biệt ngay từ giai đoạn thụ tinh - Ngày đăng: 24-11-2023
Kết quả ICSI từ tinh trùng thu nhận bằng m-TESE ở bệnh nhân vô tinh không tắc nghẽn: Một nghiên cứu hồi cứu - Ngày đăng: 24-11-2023
Nhận diện bệnh nhân có thể được thực hiện R.ICSI - Ngày đăng: 06-11-2023
Báo cáo 1 trường hợp trẻ sinh sống khỏe mạnh sau chuyển phôi nang từ hợp tử 4PN - Ngày đăng: 06-11-2023
Dự đoán tỉ lệ phôi khảm được cân nhắc để chuyển - Ngày đăng: 06-11-2023
Các biến thể hai alen mới trong ACTL7A có liên quan đến vô sinh ở nam giới và thất bại thụ tinh hoàn toàn - Ngày đăng: 06-11-2023
Chất lượng phôi nang và kết quả chu sinh: một nghiên cứu quan sát đa trung tâm đa quốc gia - Ngày đăng: 06-11-2023
Sử dụng phôi bị ảnh hưởng với mục đích làm tham chiêú trong xét nghiệm di truyền tiền làm tổ cho bệnh Thalassemia - Ngày đăng: 04-11-2023
Mối liên hệ giữa mùa thực hiện chọc hút noãn và kết quả chuyển phôi trữ - Ngày đăng: 31-10-2023
Đánh giá ảnh hưởng lâu dài của tiêm vaccine COVID-19 đến nguy cơ sẩy thai - Ngày đăng: 31-10-2023
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK