Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Thursday 12-06-2025 3:20am
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế

CNXN. Nguyễn Thị Thanh Huệ
Bệnh viện Đại học Y Dược Buôn Ma Thuột

 
Việc đánh giá lựa chọn phôi để chuyển trong quá trình thụ tinh trong ống nghiệm nhằm tăng khả năng mang thai và sinh con khỏe mạnh từ lâu đã là mục tiêu quan trọng của các nhà phôi học. Nhiều phương pháp đã được phát triển để đánh giá chất lượng phôi, chẳng hạn như: quan sát hình thái học, tốc độ phát triển, xét nghiệm di truyền tiền làm tổ, chuyển hóa năng lượng, trao đổi chất và khả năng bài tiết hoặc hấp thụ các chất từ môi trường nuôi cấy. Gần đây, trí tuệ nhân tạo kết hợp với phân tích hình ảnh cũng được đưa vào sử dụng để hỗ trợ việc lựa chọn phôi. Tuy nhiên, xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (Preimplantation Genetic Testing – PGT) đang là phương pháp phổ biến nhất, nhờ khả năng xác định phôi có bộ nhiễm sắc thể bình thường được xem là cần thiết cho một thai kỳ khỏe mạnh. Mặc dù không phải tất cả các phôi nguyên bội đều dẫn đến mang thai thành công. Một trong những câu hỏi lớn là: liệu nên chọn phương pháp đánh giá xâm lấn hay không xâm lấn? Trước đây, các nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng mức độ hấp thụ glucose là một chỉ dấu chuyển hóa có liên quan đến khả năng sống của phôi ở cả động vật và người. Điều này cho thấy trạng thái trao đổi chất có thể phản ánh chất lượng phôi. Những tiến bộ gần đây đã cho phép chúng ta nghiên cứu một số phương pháp tiếp cận không xâm lấn, có thể quan sát được quá trình trao đổi chất của phôi thông qua các loại kính hiển vi đặc biệt. Trong đó, kính hiển vi huỳnh quang (Fluorescence lifetime imaging microscopy – FLIM) là một công nghệ nổi bật. FLIM thu thập thông tin về hai phân tử chuyển hóa chủ chốt trong ty thể là NAD(P)H và FAD+ phản ánh mức độ hoạt động của tế bào. FLIM không chỉ đo cường độ quang mà còn cung cấp thông tin về thời gian tồn tại tức là thời gian mà các chất huỳnh quang duy trì trạng thái kích thích của chúng. Thời gian tồn tại huỳnh quang của NAD(P)H và FAD+ phụ thuộc vào môi trường vi mô của chúng, bao gồm cả sự tương tác của chúng với các enzyme. Do vậy, FLIM là một công cụ nhạy để mô tả, cung cấp thông tin của các biến thể trong trao đổi chất của phôi.

Các nghiên cứu trước đó sử dụng FLIM cho thấy, có thể đo trạng thái trao đổi chất của phôi chuột một cách chính xác và an toàn. Đồng thời, ghi nhận khác biệt chuyển hóa giữa các loại tế bào trong phôi (khối tế bào nội mô và lớp tế bào lá nuôi). Bên cạnh đó, có thể phân biệt phôi nguyên bội và lệch bội dựa trên hoạt động ty thể. Ngoài ra, các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng FLIM và đánh giá hình thái học không hoàn toàn trùng khớp, điều này gợi ý rằng hai phương pháp có thể cung cấp thông tin bổ sung cho nhau để cải thiện việc lựa chọn phôi. Với tất cả bằng chứng từ các nghiên cứu trước đó, nhóm tác giả đặt ra giả thuyết rằng phôi có tiềm năng phát triển sẽ có các dấu hiệu chuyển hóa đặc trưng, và những khác biệt này đủ lớn để FLIM có thể được sử dụng như một công cụ chọn phôi hiệu quả trong IVF. Vì vậy, một thử nghiệm thí điểm không can thiệp được thực hiện, quan sát phôi người chất lượng tốt bằng FLIM ngay trước khi chuyển vào tử cung. Mục tiêu là xác định liệu các chỉ số chuyển hóa đo được bằng FLIM có liên quan đến kết quả mang thai lâm sàng hay không và điều đó sẽ hỗ trợ tiềm năng ứng dụng lâm sàng của FLIM trong các nghiên cứu sâu hơn sau này.

Nghiên cứu được thực hiện tại Boston IVF (Waltham, MA, Hoa Kỳ). Tiêu chí tuyển chọn vào nghiên cứu:

  • Người tham gia ở mọi độ tuổi.

  • Bao gồm cả chu kỳ PGT-A và không PGT-A.

  • Các ca chuyển phôi trữ (frozen embryo transfer – FET).

  • Chuyển đơn phôi và phôi nang 3BB trở lên.

Tiêu chí loại trừ:

  • Bệnh nhân có ≥ 3 chu kỳ chuyển phôi tươi và/hoặc trữ thất bại trước đó.

  • Chu kỳ chỉ còn một phôi để chuyển.

Có tổng cộng 105 phôi nang chất lượng tốt đã được ghi nhận hình ảnh trao đổi chất, chuyển phôi và đưa vào phân tích. Kết quả nghiên cứu cho thấy: độ tuổi trung bình của mẹ là 33,2 tuổi và 31% số ca chuyển phôi phôi nguyên bội. Tỷ lệ mang thai lâm sàng và sinh hóa chung lần lượt là 67% và 72%.
- Các thông số FLIM (NAD(P)H và FAD+) không có sự khác biệt đáng kể giữa nhóm mang thai và nhóm không mang thai.
- Hình ảnh trao đổi chất (NAD(P)H và FAD+) có sự khác biệt giữa phôi lệch bội và phôi nguyên bội.

Kết quả được báo cáo trong nghiên cứu hiện tại chỉ ra rằng hình ảnh trao đổi chất dựa trên FLIM không dự đoán chắc chắn khả năng sống của phôi nang chất lượng tốt sau FET. Ngược lại, FLIM có mối liên quan giữa các thống số trao đổi chất với phôi nang bình thường và phôi nang bất thường về nhiễm sắc thể. FLIM là kỹ thuật tập trung vào chức năng ty thể bằng cách đo các thông số của NAD(P)H và FAD+. Ty thể đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn phát triển phôi tiền làm tổ, khi phôi chưa tự tổng hợp thêm ty thể mà chỉ sử dụng ty thể được thừa hưởng từ noãn. Quá trình sinh tổng hợp ty thể chỉ diễn ra quanh thời điểm làm tổ. Do đó, FLIM có thể chưa phản ánh đầy đủ các thay đổi chuyển hóa phức tạp diễn ra trong giai đoạn quan trọng này, đặc biệt là ở các phôi nang được đông lạnh. Mặc dù FLIM chưa thể được sử dụng như công cụ lâm sàng để lựa chọn phôi không xâm lấn, nhưng nghiên cứu này vẫn mang lại giá trị khoa học quan trọng, giúp hiểu rõ hơn về chuyển hóa phôi. FLIM cũng được chứng minh là an toàn, không ảnh hưởng đến tỷ lệ mang thai. Điểm mạnh của nghiên cứu này là một nghiên cứu thí điểm không can thiệp. Tuy nhiên, cỡ mẫu là một hạn chế lớn của nghiên cứu. Đồng thời, nghiên cứu chưa đánh giá đầy đủ những yếu tố bên ngoài có thể ảnh hưởng đến kết quả mang thai.

Tóm lại, hình ảnh trao đổi chất qua FLIM không cho thấy sự khác biệt rõ ràng trong các mô hình chuyển hóa ty thể giữa các phôi nang chất lượng tốt có dẫn đến thai kỳ hay không. Tuy nhiên, kết quả này không hoàn toàn loại bỏ tiềm năng ứng dụng lâm sàng của FLIM, FLIM vẫn có giá trị trong việc phân biệt trạng thái bội thể của phôi nang, một yếu tố quan trọng trong chọn lựa phôi. Do đó, cần có các nghiên cứu sâu hơn tập trung vào việc khảo sát các thay đổi chuyển hóa trong phôi nang ở các giai đoạn trước, trong và sau khi làm tổ.

TLTK: Sakkas, Denny, et al. "Metabolic imaging of human embryos is predictive of ploidy status but is not associated with clinical pregnancy outcomes: a pilot trial." Human Reproduction 39.3 (2024): 516-525.

 


Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Năm 2020

Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025

Năm 2020

Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK