CN. Nguyễn Hoàng Bảo Ngân – IVF Tâm Anh
Đường kính noãn được chứng minh có vai trò trong khởi động giảm phân và trưởng thành noãn. Nhiều nghiên cứu đã khám phá mối tương quan giữa đường kính noãn và khả năng phát triển phôi ở các loài động vật khác nhau, nhưng dữ liệu về người lại hạn chế.
Ở cấp độ phân tử, các con đường sinh học gồm hoạt động trưởng thành noãn, tín hiệu Wnt, và con đường PI3K/Akt (phosphoinositide 3-kinase/protein kinase B) đảm bảo phát triển nang và noãn trưởng thành tối ưu. Hoạt động của PI3K-Akt liên quan đến nhiều quá trình như tăng sinh tế bào, apoptosis, sửa chữa DNA, tổng hợp protein, đồng thời ảnh hưởng đến chức năng chiêu mộ nang nguyên thủy, tăng sinh tế bào granulosa, trưởng thành noãn và duy trì hoàng thể. Do đó, đánh giá hoạt động của PI3K/Akt giúp hiểu rõ hơn về chất lượng và năng lực phát triển của noãn.
Nghiên cứu được thực hiện để xác định tiềm năng của đường kính noãn như một chỉ số không xâm lấn để đánh giá mối tương quan với mức protein Akt trong tế bào cumulus-granulosa và động học hình thái của phôi nang.
Phương pháp
Nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu trên 32 bệnh nhân có 299 COCs, tạo ra 228 noãn MII. Các mẫu tế bào cumulus-granulosa được thu thập từ 189 noãn có xuất hiện tiền nhân. Tế bào granulosa được lấy từ dịch nang. Tế bào cumulus được thu thập sau quá trình xử lý bằng hyaluronidase. Sau đó, các tế bào được rửa sạch và chuyển vào các ống nghiệm vô trùng chứa môi trường đệm và bảo quản ở nhiệt độ −80°C cho đến khi chiết xuất protein.
Đường kính noãn được đo bằng phần mềm Image J và được phân loại thành ba nhóm gồm <105,95 µm, 105,96–118,96 µm và >118,97 µm. Các mẫu cumulus-granulosa được phân bố vào ba nhóm như sau 20 noãn (nhóm 1), 76 noãn (nhóm 2), và 93 noãn (nhóm 3).
Đo mức protein Akt phosphoryl hóa (Ser473) và tổng mức protein Akt trong tế bào cumulus-granulosa được thực hiện bằng ELISA. Động học hình thái và các sự kiện phát triển bất thường ở giai đoạn phôi nang được quan sát để đánh giá mối liên hệ giữa chất lượng phôi và đường kính noãn.
Kết quả
Đặc điểm cơ bản
Nghiên cứu ở nữ giới trung bình 33 tuổi, vô sinh 5 năm, đa số bị vô sinh nguyên phát (71%), 43,8% vô sinh không rõ nguyên nhân. Hồ sơ hormone và dự trữ buồng trứng đều bình thường. Hầu hết (93,8%) sử dụng phác đồ đối vận, thời gian kích thích trung bình 9 ngày với 2369 IU gonadotropin. Trung bình thu được 9 noãn với khoảng 6 noãn MII.
Mối tương quan giữa đường kính noãn với mức protein kinase B và động học hình thái phôi nang
Không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm về tổng mức protein Akt và protein p-Akt (P > 0,05). Ở kết quả phôi học, không có khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm về số lượng noãn thụ tinh, số lượng phôi phân chia và phôi nang, cũng như số lượng phôi phân chia và phôi nang chất lượng tốt (P > 0,05). Về động học, thông số S2 có sự khác biệt ý nghĩa giữa ba nhóm (P < 0,05), chỉ ra thời gian dài nhất được quan sát thấy ở nhóm 3, tiếp theo là nhóm 2 và nhóm 1. Ngoài ra, có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê ở phân chia ngược (reverse cleavage - RC) (P =0,041).
Bàn luận
Sự khác biệt về đường kính noãn có thể do kích thước nang khác nhau trong quá trình chọc hút, không ảnh hưởng đáng kể đến khả năng phát triển phôi. Ngoài ra, tỷ lệ RC cao ở nhóm 1, sự xuất hiện RC do sự thất bại của quá trình phân chia tế bào chất và liên quan đến các cơ chế sửa chữa trong quá trình nguyên phân, nhưng RC dường như không cản trở sự phát triển phôi đến giai đoạn phôi nang và không liên quan đến tình trạng nguyên bội.
Dù có bất thường trong thời gian S2 và DC, số lượng phôi nang và phôi nang chất lượng tốt vẫn tương đương giữa các nhóm. Điều này do khả năng tự sửa chữa của phôi, trong đó các tế bào con bất thường bị loại bỏ trong giai đoạn nén chặt, dẫn đến tạo ra phôi nguyên bội, cho thấy các bất thường nhiễm sắc thể do rối loạn nguyên phân trong quá trình phát triển phôi có thể được điều chỉnh trong giai đoạn phôi nang.
Nghiên cứu được tăng cường nhờ sử dụng tế bào cumulus-granulosa người nhằm khám phá mối liên hệ giữa đường kính noãn và một protein liên quan đến con đường truyền tín hiệu trưởng thành noãn. Tuy nhiên, nghiên cứu bị giới hạn bởi số lượng mẫu từ noãn có đường kính <105,95 µm và chỉ đánh giá một protein trong con đường truyền tín hiệu nên cần thận trọng khi diễn giải các kết quả.
Kết luận
Đường kính noãn không có mối tương quan với năng lực phát triển của noãn qua p-Akt và Akt hay chất lượng phôi qua chỉ số động học hay động lực học. Noãn có đường kính <105,95 µm vẫn có tiềm năng phát triển tương đương với noãn có đường kính lớn hơn.
Nguồn: Yuningsih T, Wiweko B, Boediono A, Gunawati I, Handayani N. Utilisation of Oocyte Diameter as a Non-invasive Indicator of Oocyte and Embryo Quality: Investigating Protein Kinase B Protein Expression in Cumulus-Granulosa Cells and Embryo Morphokinetics. J Hum Reprod Sci. 2024 Jul-Sep;17(3):185-192. doi: 10.4103/jhrs.jhrs_67_24. Epub 2024 Sep 26. PMID: 39544683; PMCID: PMC11559353.











New World Saigon hotel, thứ bảy 14 tháng 06 năm 2025 (12:00 - 16:00)
Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025
Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...