CN. Nguyễn Hoàng Bảo Ngân – IVF Tâm Anh
Kể từ khi ca sinh con qua chuyển phôi trữ (frozen-thawed embryo transfer - FET) được báo cáo lần đầu vào 1984, phương pháp này ngày càng phổ biến trong hỗ trợ sinh sản. Các nghiên cứu gần đây đã so sánh hiệu quả của các phác đồ chuẩn bị nội mạc tử cung (NMTC) khác nhau trong các chu kỳ FET và kết quả chu sinh. Hai phác đồ phổ biến là liệu pháp hormone thay thế (hormone replacement treatment - HRT) và chu kỳ tự nhiên (natural cycles - NC). HRT có thể áp dụng kèm hoặc không với GnRH đồng vận (gonadotropin-releasing hormone agonist - GnRHa) để ức chế tuyến yên, có lợi cho bệnh nhân lạc NMTC. Tuy nhiên, số ít nghiên cứu RCT chỉ ra HRT + GnRHa không mang lại lợi ích rõ rệt trong việc cải thiện kết quả thai kỳ, và vẫn chưa có câu trả lời rõ ràng về tác dụng của GnRHa trong các chu kỳ FET. Chỉ một số ít nghiên cứu với cỡ mẫu nhỏ đánh giá ảnh hưởng của các phác đồ chuẩn bị NMTC đến kết cục sơ sinh đơn thai. Hiệu quả chu sinh của các phác đồ này trong FET vẫn chưa được xác định rõ.
Do đó, mục tiêu nghiên cứu là đánh giá tác động của ba phác đồ chuẩn bị NMTC cho FET (NC, HRT có hoặc không GnRHa) lên kết quả ở mẹ và trẻ sơ sinh.
Phương pháp
Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu trên các bệnh nhân thực hiện FET sử dụng ba phác đồ chuẩn bị NMTC, cụ thể là NC, HRT và GnRHa + HRT từ năm 2016 - 2020. Tiêu chí gồm chỉ số khối cơ thể (BMI) < 28 kg/m2, tuổi mẹ ≤ 42 tuổi, bệnh nhân có chu kỳ kinh nguyệt đều (từ 21 ngày - 35 ngày), bệnh nhân sinh một con. Các kết quả bao gồm kết quả của mẹ và kết quả trẻ sơ sinh.
Kết quả
Đặc điểm cơ bản
Trong 5316 bệnh nhân, có 4399 trường hợp đơn thai thuộc nhóm HRT, 621 thuộc nhóm HRT + GnRHa, và 296 thuộc nhóm NC. Đặc điểm về tuổi mẹ, FSH, AFC, AMH, và nguyên nhân vô sinh có sự khác biệt đáng kể giữa ba nhóm (P <0,05). Các đặc điểm chu kỳ cũng khác biệt, như phác đồ kích thích buồng trứng, số lượng noãn chọc hút, noãn MII, hợp tử 2PN, liều lượng và thời gian dùng gonadotropin, tỷ lệ trưởng thành noãn, tỷ lệ thụ tinh bình thường, độ dày NMTC, số lượng và loại phôi chuyển (P <0,05).
Kết quả của mẹ và chu sinh của trẻ sinh đơn
Không có sự khác biệt về tuổi thai, cân nặng khi sinh, sinh non (preterm birth – PTB) và PTB rất nặng giữa ba nhóm. Tuy nhiên, tỷ lệ sinh mổ ở nhóm NC thấp hơn nhóm HRT + GnRHa và HRT (lần lượt là 80,1; 87,4; và 86,9%). Tỷ lệ tăng huyết áp thai kỳ (hypertensive disorder of pregnancy – HDP) cao nhất ở nhóm HRT và thấp nhất ở nhóm NC (cụ thể 4,4% và 1,7%). Có sự khác biệt nhưng không mang ý nghĩa thống kê về tỷ lệ tiểu đường thai kỳ (stational diabetes mellitus – GDM), dị tật thai nhi, nhau tiền đạo, và cân nặng khi sinh giữa 3 phác đồ.
Ngoài ra, phân tích hồi quy cho thấy nhóm HRT + GnRHa và HRT có nguy cơ sinh mổ cao hơn, cũng như HRT có nguy cơ HDP cao hơn NC. Không có sự khác biệt về tỷ lệ HDP giữa nhóm GnRHa + HRT và nhóm HRT.
Theo độ tuổi, phụ nữ < 35 tuổi sử dụng HRT và GnRHa + HRT có tỷ lệ sinh mổ cao hơn đáng kể so với NC (p<0,05). Nhóm HRT cũng có nguy cơ HDP cao hơn NC. Tuy nhiên, không có sự khác biệt về kết quả sản khoa và trẻ sơ sinh cũng như phác đồ chuẩn bị NMTC ở phụ nữ ≥ 35 tuổi.
Bàn luận
HDP là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tật cho mẹ và bé, dẫn đến sinh non và chậm phát triển thai. Theo các nghiên cứu trên các chu kỳ FET, nguy cơ HDP và xuất huyết sau sinh cao hơn ở HRT so với NC. Nguyên nhân có thể liên quan đến thiếu thể vàng (corpus luteum – CL) khi mang thai. Ở các chu kỳ HRT, sự vắng mặt CL làm thiếu hụt estrogen, progesterone, yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (vascular endothelial growth factor – VEGF) và relaxin, gây suy giảm độ đàn hồi mạch máu, lưu lượng máu tử cung và gây tăng huyết áp. Một nghiên cứu cũng cho thấy vận tốc sóng động mạch cảnh-đùi chậm ở phụ nữ mang thai ở HRT, cho thấy dấu hiệu của tiền sản giật. Đáng chú ý, tỷ lệ sinh mổ tăng trong các chu kỳ HRT và HRT + GnRHa, liên quan đến HDP.
Phụ nữ <35 tuổi thuộc HRT có nguy cơ cao hơn mắc HDP và sinh mổ, trong khi xu hướng này không xuất hiện ở nhóm ≥35 tuổi, nhấn mạnh vai trò của độ tuổi trong lựa chọn phác đồ chuẩn bị NMTC. Chu kỳ NC có thể phù hợp cho phụ nữ trẻ nhằm giảm biến chứng sản khoa. HRT và HRT + GnRHa có thể ảnh hưởng tiêu cực đến phụ nữ trẻ, do đó cần cá nhân hóa chiến lược điều trị, giúp bác sĩ lựa chọn phác đồ nội mạc tối ưu theo đặc điểm bệnh nhân.
Phác đồ HRT được chia thành hai phân nhóm để đánh giá vai trò của GnRHa. Mặc dù thường được sử dụng cho các bệnh nhân thất bại làm tổ nhiều lần, lạc NMTC, tác động của GnRHa đến kết quả thai kỳ và chu sinh vẫn chưa rõ ràng. Một số nghiên cứu cho thấy GnRHa có thể giảm estradiol và gây vô kinh kéo dài. Dù một RCT báo cáo GnRHa cải thiện tỷ lệ thai lâm sàng và sinh sống, các nghiên cứu khác lại cho thấy không có lợi ích đáng kể. Một nghiên cứu đa trung tâm tại Trung Quốc ghi nhận GnRHa + HRT làm tăng nguy cơ tiền sản giật. Nghiên cứu hiện tại cho thấy điều trị HRT + GnRHa không có ưu thế hơn so với các chu kỳ HRT về kết quả chu sinh.
Kết luận
Phác đồ HRT (có hoặc không GnRHa) làm tăng nguy cơ HDP và sinh mổ ở phụ nữ <35 tuổi. Ngoài ra, không có khác biệt về cân nặng của trẻ khi sinh giữa các phác đồ. Thêm vào đó, HRT+GnRHa không cải thiện kết quả chu sinh so với HRT. Do đó, NC có thể là lựa chọn phù hợp và an toàn hơn đối với phụ nữ trẻ.
Nguồn: Hu X, Liao Z, Li J, Zhou Y, Guo Y, Qian K. Young women were associated with higher risk of hypertensive disorders of pregnancy and cesarean section from hormone replaced cycles in frozen-thawed embryo transfer: a retrospective study of 5316 singleton deliveries. Front Endocrinol (Lausanne). 2023 Sep 5;14:1238887. doi: 10.3389/fendo.2023.1238887. PMID: 37772083; PMCID: PMC10523772.










New World Saigon hotel, thứ bảy 14 tháng 06 năm 2025 (12:00 - 16:00)
Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025
Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...