Tin tức
on Thursday 05-06-2025 2:05am
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Đào Hữu Nghị - IVFMD Phú Nhuận, Bệnh viện Mỹ Đức Phú Nhuận
Tỷ lệ béo phì đã gia tăng đáng kể trong những năm gần đây và xu hướng này đang mở rộng ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Ngoài các mối liên hệ đã được xác nhận với các bệnh lý chuyển hóa, tim mạch và ung thư, béo phì còn được nhiều nghiên cứu chứng minh là có ảnh hưởng bất lợi đến kết quả IVF. Một nghiên cứu của Provost (2016), phân tích khoảng 250.000 chu kỳ IVF tự thân từ cơ sở dữ liệu SART CORS, cho thấy khi chỉ số khối cơ thể (Body mass index – BMI) tăng dẫn đến tăng tỷ lệ sảy thai và giảm tỷ lệ trẻ sinh sống. Hai phân tích tổng hợp sau đó của Supramaniam (2018) và Sermondade (2019) đã xác nhận các kết quả này, kết luận rằng béo phì có liên quan đến tăng tỷ lệ sảy thai cao và giảm tỷ lệ trẻ sinh sống sau IVF. Tuy nhiên, hiện vẫn có rất ít nghiên cứu đánh giá tác động của BMI đối với tỷ lệ thai lâm sàng, tỷ lệ sẩy thai và tỷ lệ trẻ sinh sống sau chuyển phôi đông lạnh (Frozen Embryo Transfer - FET), mà các kết quả hiện tại vẫn không đồng nhất với nhau. Ngoài ra, các nghiên cứu trước đây có nhiều hạn chế về các quy trình đông lạnh phôi, chuẩn bị nội mạc tử cung, giai đoạn phôi phân chia và đa số là chuyển phôi tươi... Do đó, mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá mối liên quan giữa BMI với kết quả thai kỳ trong một nhóm bệnh nhân lớn trải qua chu kỳ FET chuyển phôi nang nguyên bội.
Dữ liệu các chu kỳ FET được sử dụng cho nghiên cứu này được lấy từ SART CORS (2016–2019). Các chu kỳ từ những bệnh nhân được chẩn đoán là sẩy thai liên tiếp hoặc vô sinh do yếu tố tử cung, chiều cao hoặc cân nặng được ghi nhận không hợp lý về mặt sinh lý (<48 inch) hoặc không đầy đủ (<70 pound), các chu kỳ hoặc kết quả mang thai bị mất hoặc không đầy đủ dữ liệu sẽ bị loại khỏi phân tích.
Các chu kỳ FET được chia thành các nhóm BMI dựa trên hướng dẫn của Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization - WHO): thiếu cân (16,0–18,4 kg/m2), bình thường (18,5–24,9 kg/m2), thừa cân (25,0–29,9 kg/m 2), béo phì (nhóm I, 30,0–34,9 kg/m2 ; nhóm II, 35,0–39,5 kg/m2 ; và nhóm III, 40,0–45,9 kg/m2 và 46,0–49,9 kg/m2 ) và siêu béo phì ( nhóm IV, ≥50,0 kg/m2 ). Nhóm bệnh nhân có BMI bình thường được coi là nhóm đối chứng. Kết quả bao gồm: tỷ lệ thai lâm sàng, tỷ lệ sẩy thai và tỷ lệ trẻ sinh sống.
Kết quả nghiên cứu trên 56.564 chu kỳ FET cho thấy:
Kết quả nghiên cứu khi phân chia thành 2 phân nhóm nhỏ, nhóm Hội chứng buồng trứng đa nang (Polycystic ovary syndrome – PCOS, n=4.626) và nhóm vô sinh do yếu tố nam (n=10.854), cho thấy:
Đây là nghiên cứu có quy mô dữ liệu lớn nhất cho đến nay, cho thấy BMI tăng có liên quan đến việc giảm tỷ lệ thai lâm sàng, tỷ lệ trẻ sinh sống và tăng tỷ lệ sẩy thai ở các chu kỳ FET chuyển phôi nang nguyên bội trong toàn bộ dữ liệu phân tích và trong nhóm PCOS; tuy nhiên, những kết quả này bị suy yếu, không cho thấy xu hướng rõ ràng khi chỉ phân tích ở nhóm vô sinh do yếu tố nam. Do đó, những kết quả bất lợi này còn có thể bị ảnh hưởng bởi các rối loạn chuyển hoá của PCOS, chứ không phải chỉ riêng ảnh hưởng của BMI.
Link: https://www.fertstert.org/article/S0015-0282(23)00724-0/fulltext
Nguồn: Bakkensen, J. B., Strom, D., & Boots, C. E. (2024). Frozen embryo transfer outcomes decline with increasing female body mass index in female but not male factor infertility: analysis of 56,564 euploid blastocyst transfers. Fertility and Sterility, 121(2), 271-280.
Tỷ lệ béo phì đã gia tăng đáng kể trong những năm gần đây và xu hướng này đang mở rộng ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Ngoài các mối liên hệ đã được xác nhận với các bệnh lý chuyển hóa, tim mạch và ung thư, béo phì còn được nhiều nghiên cứu chứng minh là có ảnh hưởng bất lợi đến kết quả IVF. Một nghiên cứu của Provost (2016), phân tích khoảng 250.000 chu kỳ IVF tự thân từ cơ sở dữ liệu SART CORS, cho thấy khi chỉ số khối cơ thể (Body mass index – BMI) tăng dẫn đến tăng tỷ lệ sảy thai và giảm tỷ lệ trẻ sinh sống. Hai phân tích tổng hợp sau đó của Supramaniam (2018) và Sermondade (2019) đã xác nhận các kết quả này, kết luận rằng béo phì có liên quan đến tăng tỷ lệ sảy thai cao và giảm tỷ lệ trẻ sinh sống sau IVF. Tuy nhiên, hiện vẫn có rất ít nghiên cứu đánh giá tác động của BMI đối với tỷ lệ thai lâm sàng, tỷ lệ sẩy thai và tỷ lệ trẻ sinh sống sau chuyển phôi đông lạnh (Frozen Embryo Transfer - FET), mà các kết quả hiện tại vẫn không đồng nhất với nhau. Ngoài ra, các nghiên cứu trước đây có nhiều hạn chế về các quy trình đông lạnh phôi, chuẩn bị nội mạc tử cung, giai đoạn phôi phân chia và đa số là chuyển phôi tươi... Do đó, mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá mối liên quan giữa BMI với kết quả thai kỳ trong một nhóm bệnh nhân lớn trải qua chu kỳ FET chuyển phôi nang nguyên bội.
Dữ liệu các chu kỳ FET được sử dụng cho nghiên cứu này được lấy từ SART CORS (2016–2019). Các chu kỳ từ những bệnh nhân được chẩn đoán là sẩy thai liên tiếp hoặc vô sinh do yếu tố tử cung, chiều cao hoặc cân nặng được ghi nhận không hợp lý về mặt sinh lý (<48 inch) hoặc không đầy đủ (<70 pound), các chu kỳ hoặc kết quả mang thai bị mất hoặc không đầy đủ dữ liệu sẽ bị loại khỏi phân tích.
Các chu kỳ FET được chia thành các nhóm BMI dựa trên hướng dẫn của Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization - WHO): thiếu cân (16,0–18,4 kg/m2), bình thường (18,5–24,9 kg/m2), thừa cân (25,0–29,9 kg/m 2), béo phì (nhóm I, 30,0–34,9 kg/m2 ; nhóm II, 35,0–39,5 kg/m2 ; và nhóm III, 40,0–45,9 kg/m2 và 46,0–49,9 kg/m2 ) và siêu béo phì ( nhóm IV, ≥50,0 kg/m2 ). Nhóm bệnh nhân có BMI bình thường được coi là nhóm đối chứng. Kết quả bao gồm: tỷ lệ thai lâm sàng, tỷ lệ sẩy thai và tỷ lệ trẻ sinh sống.
Kết quả nghiên cứu trên 56.564 chu kỳ FET cho thấy:
- Tỷ lệ thai lâm sàng: cao nhất ở nhóm bình thường (65,9%) và thừa cân (65,8%) và thấp hơn đáng kể ở nhóm thiếu cân (63,3%) hoặc béo phì. Trong số nhóm béo phì, tỷ lệ thai lâm sàng giảm dần khi BMI tăng dần, với tỷ lệ thấp nhất ở nhóm IV (46,5%) so với bình thường.
- Tỷ lệ sẩy thai: thấp nhất ở nhóm bình thường (11,4%), tăng nhẹ trong nhóm thiếu cân (12,5%) và tăng đáng kể ở nhóm thừa cân (12,5%) hoặc béo phì, với tỷ lệ cao nhất ở nhóm IV (20,0%) so với bình thường.
- Tỷ lệ trẻ sinh sống: cao nhất ở nhóm bình thường (58,2%) hoặc thừa cân (57,2%), giảm nhẹ ở nhóm thiếu cân (55,0%) và giảm rõ rệt hơn khi BMI tăng dần, với tỷ lệ thấp ở nhóm IV (37,2%) so với bình thường.
Kết quả nghiên cứu khi phân chia thành 2 phân nhóm nhỏ, nhóm Hội chứng buồng trứng đa nang (Polycystic ovary syndrome – PCOS, n=4.626) và nhóm vô sinh do yếu tố nam (n=10.854), cho thấy:
- Nhóm PCOS: tỷ lệ thai lâm sàng, sẩy thai và trẻ sinh sống chung lần lượt là 65,1%, 14,7% và 55,2%. Trong đó, tỷ lệ thai lâm sàng giảm từ 65,6% ở nhóm bình thường xuống thấp nhất còn 51,3% ở nhóm III (45–49,9 kg/m2) và 52,6% ở nhóm IV; tỷ lệ sẩy thai tăng từ 13,2% nhóm bình thường lên 30,0% ở nhóm IV; tỷ lệ trẻ sinh sống giảm từ 56,7% ở nhóm bình thường xuống chỉ còn 36,8% ở nhóm IV.
- Vô sinh do yếu tố nam: tỷ lệ thai lâm sàng, sẩy thai và trẻ sinh sống chung lần lượt là 67,0%, 11,2% và 59,2%. Khi phân tích kết quả bằng nhóm BMI thì không thấy xu hướng rõ ràng. Trong đó, tỷ lệ thai lâm sàng cao nhất ở nhóm thừa cân là 67,8% giảm xuống thấp nhất còn 57,9% ở nhóm III (40–44,9 kg/m2), sau đó tăng lên 61,3% và 62,5% ở nhóm có III (45–49,9 kg/m2) và nhóm IV; tỷ lệ sẩy thai có xu hướng tăng khi BMI tăng lên, cao nhất là 17,1% ở nhóm III (40–44,9 kg/m2); tuy nhiên, giảm xuống 15,8% ở nhóm III (45–49,9 kg/m2) và 0% ở nhóm IV; tỷ lệ trẻ sinh sống cao nhất ở nhóm bình thường (60,2%), giảm xuống khi BMI tăng lên, thấp nhất là 48% ở nhóm III (40–44,9 kg/m2), sau đó tăng lên lại ở nhóm III (45–49,9 kg/m2) và nhóm IV lần lượt là 51,6% và 62,5%.
Đây là nghiên cứu có quy mô dữ liệu lớn nhất cho đến nay, cho thấy BMI tăng có liên quan đến việc giảm tỷ lệ thai lâm sàng, tỷ lệ trẻ sinh sống và tăng tỷ lệ sẩy thai ở các chu kỳ FET chuyển phôi nang nguyên bội trong toàn bộ dữ liệu phân tích và trong nhóm PCOS; tuy nhiên, những kết quả này bị suy yếu, không cho thấy xu hướng rõ ràng khi chỉ phân tích ở nhóm vô sinh do yếu tố nam. Do đó, những kết quả bất lợi này còn có thể bị ảnh hưởng bởi các rối loạn chuyển hoá của PCOS, chứ không phải chỉ riêng ảnh hưởng của BMI.
Link: https://www.fertstert.org/article/S0015-0282(23)00724-0/fulltext
Nguồn: Bakkensen, J. B., Strom, D., & Boots, C. E. (2024). Frozen embryo transfer outcomes decline with increasing female body mass index in female but not male factor infertility: analysis of 56,564 euploid blastocyst transfers. Fertility and Sterility, 121(2), 271-280.
Các tin khác cùng chuyên mục:












TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
New World Saigon hotel, thứ bảy 14 tháng 06 năm 2025 (12:00 - 16:00)
Năm 2020
Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025
Năm 2020
Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK