Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Sunday 01-06-2025 11:07pm
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Ngọc Lâm – Olea Fertility, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park
  1. Giới thiệu
Trong bốn thập kỷ qua, có khoảng 7% nam giới mắc các vấn đề liên quan đến việc giảm khả năng sinh sản. Điều đáng nói là chỉ số phân mảnh DNA tinh trùng (DNA fragmentation index – DFI) ngày càng tăng ngay cả khi các thông số tinh dịch bình thường hay bất thường. Điều này làm kéo dài thời gian mang thai, giảm tỷ lệ thụ tinh và sự phát triển của phôi. Vì vậy, việc chuẩn bị tinh trùng trong các phương pháp hỗ trợ sinh sản đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Hai kỹ thuật chuẩn bị tinh trùng được sử rộng rãi hiện nay là phương pháp bơi lên (Swim-up) và ly tâm đẳng tỉ trọng (Density gradient centrifugation – DGC). Phương pháp bơi lên có thể giúp thu nhận được tinh trùng có độ di động cao, tuy nhiên lại gặp bất lợi trong trường hợp mẫu có khả năng di động kém. Mặt khác, DGC có khả năng áp dụng ở phổ mẫu rộng hơn nhưng sẽ làm ảnh hưởng đến DNA tinh trùng do phải sử dụng các bước ly tâm trong quy trình.
Phương pháp vi dòng chảy đã được nghiên cứu và nhắm đến như một phương án để cải thiện những nhược điểm của hai phương pháp trên. Để đạt được điều đó 3 phương pháp này đã được đem ra để so sánh về hiệu quả trong việc chuẩn bị tinh trùng. Các tiêu chí được đưa ra là khả năng di động, hình thái và mức độ phân mảnh DNA tinh trùng. Ngoài ra, nghiên cứu còn muốn làm sáng tỏ việc phương pháp vi dòng chảy có tác động như thế nào đến hai trong các yếu tố tạo nên các gốc oxy hóa tự do (Reactive Oxygen Species – ROS) là superoxide (O2-) và hydrogen peroxide (H2O2) nội bào của tinh trùng.

  1. Vật liệu và phương pháp
Đây là một nghiên cứu tiến cứu, một thiết bị vi dòng chảy của hãng Puhua Technology (Thành Đô, Trung Quốc) được sử dụng để so sánh với hai phương pháp bơi lên và DGC thông qua bốn chỉ số: Khả năng di chuyển, hình thái của tinh trùng, chỉ số phân mảnh DNA và mức ROS. Tổng cộng có 12 bệnh nhân tham gia nghiên cứu (độ tuổi trung bình 32,5 ± 4,2 tuổi), có tinh dịch với mật độ trung bình 45,3 ± 12,1 (triệu/ml), tinh trùng di động tiến tới 52,4 ± 8,7 (%) và hình dạng bình thường dao động trong 6,2 ± 1,8 (%). Tinh dịch của 12 bệnh nhân đánh giá tinh dịch đồ theo tổ chức y tế thế giới bản 5 (World Health Organization - WHO, 2010). Phần tinh dịch còn lại được sử dụng để chuẩn bị tinh trùng theo cả ba phương pháp bơi lên, DGC và vi dòng chảy. Tinh trùng sau khi thu nhận từ ba phương pháp sẽ được đông lạnh và đánh giá sự phân mảnh của tinh trùng sau khi rã đông.
  1. Kết quả
Khả năng di động và hình thái
  • Tổng số tinh trùng di động và phầm trăm tinh trùng di động tiến tới ở phương pháp vi dòng chảy là cao nhất. Tỉ lệ di động của cả 2 phương pháp bơi lên (67%) và vi dòng chảy (69%) đều cao hơn so với phương pháp DGC (43%) có ý nghĩa thống kê.
  • Phần trăm tỉ lệ hình dạng tinh trùng bình thường có phần nhỉnh hơn ở phương pháp vi dòng chảy so với hai phương pháp còn lại nhưng không có ý nghĩa về mặt thống kê.
Tính toàn vẹn DNA tinh trùng
  • DFI thấp hơn đáng kể ở tinh trùng được chuẩn bị bằng vi dòng chảy và bơi lên so với DGC (1% và 7% so với 25%, P<0,05).
  • Tương tự khi so sánh DFI ở tinh trùng của vi dòng chảy và bơi lên so với mẫu tinh dịch tươi cũng thấp hơn có ý nghĩa thống kê (1% và 7% so với 24%, P<0,01).
Mức độ ROS
  • Mức độ H2O2 nội bào tương tự nhau ở cả ba phương pháp.
  • Mức độ O2- ty thể thấp hơn đáng kể ở tinh trùng được chuẩn bị bằng vi dòng chảy so với tinh dịch tươi (27 so với 62, P<0,05).
Đông lạnh tinh trùng có làm tăng phân mảnh DNA tinh trùng ở cả 3 phương pháp chọc lọc tinh trùng?
  • Sau khi đông lạnh và rã đông, tinh trùng được chuẩn bị bằng vi dòng chảy và bơi lên có sự phân mảnh DNA tinh trùng thấp hơn đáng kể so với DGC (lần lượt là 2%, 8% so với 35%, P<0,001 và P<0,0001).
  1. Bàn luận
Nghiên cứu này cho thấy vi dòng chảy là một phương pháp đầy tiềm năng để thu nhận tinh trùng. Tuy nhiên cỡ mẫu nhỏ, nghiên cứu tại một trung tâm và thời gian nghiên cứu ngắn là những trở ngại khiến kết quả của nghiên cứu này cần thêm nhiều bằng chứng. Mặt khác, nghiên cứu cần đi đến những tiêu chí quan trọng hơn được quan tâm trong hỗ trợ sinh sản như: tỷ lệ thụ tinh, chất lượng phôi hay tỉ lệ mang thai. Một tiêu chí cần phải xem xét nữa là việc các đánh giá tinh dịch đồ dựa theo tiêu chí của tổ chức y tế thế giới phiên bản thứ 5 (WHO 2010), trong khi các hướng tiếp cận hiện nay đang sử dụng ấn bản thứ 6.
  1. Kết luận
Chuẩn bị tinh trùng bằng phương pháp vi dòng chảy có khả năng chọn lựa được tinh trùng chất lượng cao với khả năng di chuyển, hình thái tốt, DFI thấp và O2- ty thể giảm hơn so với DCG. Tuy nhiên, cần nhiều nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn để xác nhận những phát hiện này.
 
Tài liệu tham khảo: Wen, Z. N., Duan, L., Chen, Y., Qiu, Q. H., Liu, G., Luo, N., Li, P. H., Tian, E. P., & Ge, R. S. (2025). Comparative Efficacy of Swim-Up, Density-Gradient Centrifugation, and Microfluidic Sorting in Sperm Preparation, and the Impact on Motility, Morphology, and DNA Integrity. International journal of general medicine, 18, 2355–2366. https://doi.org/10.2147/IJGM.S517575.
 


Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Năm 2020

Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025

Năm 2020

Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK