Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Tuesday 13-08-2024 1:42am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH Tăng Lê Thái Ngọc – IVFMD Tân Bình

Giới thiệu
Sự lão hóa buồng trứng, chủ yếu được đặc trưng bởi sự giảm dần về số lượng và chất lượng noãn, biểu hiện lâm sàng là dự trữ buồng trứng giảm cho đến khi mất khả năng sinh sản, kèm theo rối loạn chức năng nội tiết và bất thường chu kỳ kinh nguyệt. Xem xét khả năng sinh sản bị suy giảm cũng như nguy cơ sẩy thai tự nhiên, biến chứng liên quan đến thai kỳ và dị tật bẩm sinh ở trẻ em, lão hóa buồng trứng là mối đe dọa lớn đối với sức khỏe sinh sản, dẫn đến hậu quả có hại cho sức khỏe con người. Công nghệ hỗ trợ sinh sản đã được áp dụng để giảm bớt các vấn đề vô sinh trong nhiều thập kỷ. Mặc dù các chiến lược như sử dụng noãn hiến tặng và bảo quản đông lạnh noãn đã phát triển như những giải pháp chính cho tình trạng lão hoá của buồng trứng, nhưng tác động chung của các phương pháp trên vẫn chưa được như kì vọng ban đầu và chúng không thể tiếp cận được với một tỉ lệ đáng kể phụ nữ vì lý do kinh tế, đạo đức và văn hóa. Do đó, cần có các liệu pháp dựa trên bằng chứng có thể cải thiện tình trạng lão hóa buồng trứng một cách hiệu quả và an toàn.
 
Cơ sở phân tử cho sự suy thoái của quá trình lão hóa buồng trứng là đa yếu tố và chưa được hiểu đầy đủ. Theo lý thuyết lão hóa cổ điển, các hiện tượng lão hóa xảy ra do sự tích tụ căng thẳng oxy hóa tế bào. Các gốc oxy phản ứng, chủ yếu được sản xuất trong ty thể, rất quan trọng để điều chỉnh các hoạt động sinh lý khác nhau của buồng trứng. Sự tích tụ bất thường của các gốc oxy hoá phản ứng dẫn đến lão hóa tế bào, stress oxy hóa buồng trứng và những thay đổi trong vi môi trường buồng trứng, gây thêm tổn thương cho chất lượng và số lượng noãn. Hiện nay, chất chống oxy hóa đã được sử dụng rộng rãi trong các thực hành lâm sàng phụ khoa như là lựa chọn điều trị tiềm năng để làm chậm quá trình lão hóa và cải thiện kết quả sinh sản. Một đánh giá của Cochrane được tiến hành trên quần thể vô sinh hiếm muộn đã báo cáo rằng chất chống oxy hóa có thể cải thiện tỉ lệ mang thai lâm sàng nhưng có tác dụng không rõ ràng đối với tỉ lệ trẻ sinh sống. Cho đến nay, không có phân tích tổng hợp nào đánh giá tác động của chất chống oxy hóa trong quá trình lão hóa của buồng trứng và có rất ít sự đồng thuận về các phác đồ điều trị. Tất cả những điều này cản trở việc áp dụng chất chống oxy hóa trong việc quản lý quá trình lão hóa buồng trứng. Do lão hóa buồng trứng đóng vai trò quan trọng trong quá trình sinh bệnh của vô sinh và phụ nữ bị lão hóa buồng trứng là nhóm vô sinh khó điều trị nhất trong lâm sàng, bài tổng quan hệ thống và phân tích gộp các RCT này được thiết kế để đánh giá hiệu quả và tính an toàn của chất chống oxy hóa đối với kết quả sinh sản ở phụ nữ bị lão hóa buồng trứng trong quá trình thụ tinh trong ống nghiệm và xác định thêm phác đồ dùng thuốc tối ưu, từ đó đưa ra các khuyến nghị về thực hành lâm sàng dựa trên bằng chứng để kéo dài tuổi thọ sinh sản và ngăn ngừa lão hóa buồng trứng.
 
 
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này được tiến hành theo hướng dẫn của PRISMA. Các cơ sở dữ liệu như Cochrane Central Register of Controlled Trials, PubMed, Embase và ClinicalTrials.gov đã được tìm kiếm và bao gồm các nghiên cứu được công bố cho đến ngày 12 tháng 9 năm 2023.
 
Các nghiên cứu được đưa vào đáp ứng các tiêu chí bao gồm sau: 1) thiết kế nghiên cứu là RCT; 2) đánh giá tác dụng của chất chống oxy hóa ở nhóm lão hóa buồng trứng, bao gồm phụ nữ lớn tuổi (>35 tuổi) và những người có dự trữ buồng trứng giảm hoặc suy buồng trứng sớm; 3) RCT có bổ sung chất chống oxy hóa trong nhóm thử nghiệm so với giả dược hoặc không điều trị. Các tiêu chí loại trừ như sau: 1) thử nghiệm bán ngẫu nhiên, nghiên cứu theo dõi hoặc báo cáo loạt ca, đánh giá, phân tích tổng hợp, thí nghiệm trên động vật hoặc tế bào; 2) nghiên cứu bao gồm những phụ nữ mắc bất kỳ bệnh phụ khoa nghiêm trọng nào (ví dụ, bất thường về giải phẫu tử cung, dị tật tử cung, dính trong tử cung hoặc lạc nội mạc tử cung), bất kỳ bệnh tim mạch hoặc mạch máu não nghiêm trọng nào, hoặc các vấn đề về tâm thần hoặc thần kinh; 3) nghiên cứu so sánh chất chống oxy hóa riêng lẻ với thuốc hỗ trợ sinh sản; và 4) nghiên cứu cung cấp không đủ dữ liệu thống kê về các kết quả quan tâm.
 
Các kết quả chính là tỉ lệ sinh con sống và tỉ lệ mang thai lâm sàng. Các kết quả phụ bao gồm tỉ lệ sẩy thai, số lượng noãn thu được, noãn ở kỳ giữa II [MII], phôi chất lượng tốt và liều lượng gonadotropin sử dụng trong quá trình kích thích buồng trứng.
 
Kết quả nghiên cứu
Tổng cộng có 20 RCT được đưa vào phân tích gộp trên. Kết quả cho thấy việc sử dụng chất chống oxy hóa không chỉ làm tăng đáng kể số lượng noãn thu được và tỉ lệ phôi chất lượng tốt mà còn làm giảm liều gonadotropin, góp phần làm tăng tỉ lệ mang thai lâm sàng.
 
Đối với phác đồ điều trị, phân tích phân nhóm cho thấy mối quan hệ phụ thuộc vào liều lượng giữa phương pháp điều trị chống oxy hóa và kết quả sinh sản, với xu hướng hiệu quả tốt hơn rõ rệt khi sử dụng các chất này ở liều lượng thấp hơn. Về các loại chất chống oxy hóa, coenzyme Q10 (CoQ10) có xu hướng hiệu quả hơn melatonin, myo-inositol và vitamin. Khi so sánh với giả dược hoặc không điều trị, CoQ10 cho thấy nhiều lợi thế hơn, trong khi các loại thuốc khác chỉ cải thiện nhỏ. Ngoài ra, dựa trên phân tích phân nhóm CoQ10, phác đồ điều trị CoQ10 tối ưu để cải thiện tỉ lệ mang thai là 30 mg/ngày trong 3 tháng trước chu kỳ kích thích buồng trứng có kiểm soát và phụ nữ có dự trữ buồng trứng giảm rõ ràng được hưởng lợi từ điều trị CoQ10, đặc biệt là những người <35 tuổi.
 
Kết luận
Tóm lại, nghiên cứu cho thấy liệu pháp chống oxy hóa là một chiến lược bổ sung hiệu quả và an toàn trong quá trình IVF cho những phụ nữ bị lão hóa buồng trứng. Trong số đó, điều trị bằng CoQ10 là một lựa chọn đầy hứa hẹn để cứu vãn tình trạng suy giảm khả năng sinh sản do lão hóa buồng trứng. Ngoài ra, có thể có mối quan hệ phụ thuộc vào liều lượng giữa liệu pháp chống oxy hóa và kết quả sinh sản, cụ thể là liều thấp có xu hướng mang lại nhiều lợi ích hơn. Do đó, nên cung cấp liệu pháp chống oxy hóa thích hợp từ liều thấp theo độ tuổi và dự trữ buồng trứng của bệnh nhân. Nhìn chung, chất lượng bằng chứng so sánh không cao và cần đánh giá thêm trong các RCT với quy mô mẫu lớn hơn và thiết kế chặt chẽ để xác nhận tác dụng của chất chống oxy hóa đối với kết quả sinh sản ở tình trạng lão hóa buồng trứng.
 
Nguồn: Shang, Y., Song, N., He, R., & Wu, M. (2024). Antioxidants and Fertility in Women with Ovarian Ageing: a Systematic Review and Meta-Analysis. Advances in Nutrition, 100273.
 

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK