Tin tức
on Thursday 01-08-2024 1:53pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH Phan Thị Ngọc Linh – IVFMD Tân Bình
Nghiên cứu này nhằm xác định mối liên hệ giữa sự phân mảnh DNA tinh trùng, hình thái và mật độ tinh trùng với kết quả lâm sàng sinh sản (chủ yếu là khả năng sinh con sống và nguy cơ sảy thai tiếp theo) ở các cặp vợ chồng bị RPL.
Các cặp vợ chồng tham gia nghiên cứu sau khi trải qua ba lần sảy thai liên tiếp (bao gồm cả thai chết lưu sớm) hoặc hai lần sảy thai muộn (sảy thai sau khi sàng lọc tam cá nguyệt đầu tiên bình thường). Tất cả các cặp vợ chồng được mời tham gia tại cuộc tư vấn đầu tiên từ ngày 1 tháng 4 năm 2018 đến ngày 1 tháng 12 năm 2019 và được theo dõi ít nhất 1 năm sau khi tham gia. Các tiêu chí loại trừ bao gồm: tuổi phụ nữ trên 41 tuổi, có hơn một con chung, bất thường nhiễm sắc thể của bố mẹ (kiểm tra kiểu gen tiêu chuẩn của cặp vợ chồng được thực hiện thường quy tại phòng khám), sử dụng tinh trùng hoặc noãn hiến tặng, dị tật tử cung nghiêm trọng và sử dụng kháng sinh, kháng nấm hoặc kháng virus trong vòng 2 tuần trước đó (cả vợ hoặc chồng).
Không có sự khác biệt đáng kể về chỉ số phân mảnh DNA tinh trùng (DFI) ban đầu giữa các cặp bị sảy thai (trung bình 11,7; IQR 9,1-17,3) và các cặp sinh con sống (trung bình 12,5; IQR 9,3-16,5; P = 0,971).
Cải thiện hình thái tinh trùng làm tăng khả năng sinh con sống (OR 1,26; khoảng tin cậy 95% 1,05-1,52; P = 0,014).
DFI và mật độ tinh trùng không liên quan đến kết quả của lần mang thai đầu tiên sau khi chuyển phôi. Các cặp không mang thai có DFI trung bình cao hơn là 17,7 (IQR 7,7-27,2) so với phần còn lại của nhóm nghiên cứu (trung bình 12,0, IQR 9,3-16,5; P = 0,041).
Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng hình thái tinh trùng tốt hơn liên quan đến khả năng sinh con sống, nhưng không ảnh hưởng đến nguy cơ sảy thai tiếp theo hoặc khả năng mang thai. Ngoài ra, không có mối liên hệ giữa mật độ tinh trùng và trẻ sinh sống. Các yếu tố khác như tuổi và giãn tĩnh mạch thừng tinh cũng được xem xét, nhưng không có kết luận rõ ràng về mối liên hệ với DFI và kết quả sinh sản. Các hạn chế của nghiên cứu này bao gồm việc sử dụng phương pháp đo DFI không trực tiếp đo đứt gãy sợi DNA và thiếu thông tin về tình trạng di truyền của thai nhi bị mất.
Tổng kết lại, nghiên cứu này cho thấy vai trò quan trọng của yếu tố nam giới trong RPL và cần nghiên cứu sâu hơn về mối liên hệ giữa DFI, hình thái tinh trùng và kết quả sinh sản.
TLTK: Krog, Maria Christine, et al. "Prospective reproductive outcomes according to sperm parameters, including DNA fragmentation, in recurrent pregnancy loss." Reproductive BioMedicine Online 49.2 (2024): 103773.
- GIỚI THIỆU
Nghiên cứu này nhằm xác định mối liên hệ giữa sự phân mảnh DNA tinh trùng, hình thái và mật độ tinh trùng với kết quả lâm sàng sinh sản (chủ yếu là khả năng sinh con sống và nguy cơ sảy thai tiếp theo) ở các cặp vợ chồng bị RPL.
- PHƯƠNG PHÁP
Các cặp vợ chồng tham gia nghiên cứu sau khi trải qua ba lần sảy thai liên tiếp (bao gồm cả thai chết lưu sớm) hoặc hai lần sảy thai muộn (sảy thai sau khi sàng lọc tam cá nguyệt đầu tiên bình thường). Tất cả các cặp vợ chồng được mời tham gia tại cuộc tư vấn đầu tiên từ ngày 1 tháng 4 năm 2018 đến ngày 1 tháng 12 năm 2019 và được theo dõi ít nhất 1 năm sau khi tham gia. Các tiêu chí loại trừ bao gồm: tuổi phụ nữ trên 41 tuổi, có hơn một con chung, bất thường nhiễm sắc thể của bố mẹ (kiểm tra kiểu gen tiêu chuẩn của cặp vợ chồng được thực hiện thường quy tại phòng khám), sử dụng tinh trùng hoặc noãn hiến tặng, dị tật tử cung nghiêm trọng và sử dụng kháng sinh, kháng nấm hoặc kháng virus trong vòng 2 tuần trước đó (cả vợ hoặc chồng).
- KẾT QUẢ
Không có sự khác biệt đáng kể về chỉ số phân mảnh DNA tinh trùng (DFI) ban đầu giữa các cặp bị sảy thai (trung bình 11,7; IQR 9,1-17,3) và các cặp sinh con sống (trung bình 12,5; IQR 9,3-16,5; P = 0,971).
Cải thiện hình thái tinh trùng làm tăng khả năng sinh con sống (OR 1,26; khoảng tin cậy 95% 1,05-1,52; P = 0,014).
DFI và mật độ tinh trùng không liên quan đến kết quả của lần mang thai đầu tiên sau khi chuyển phôi. Các cặp không mang thai có DFI trung bình cao hơn là 17,7 (IQR 7,7-27,2) so với phần còn lại của nhóm nghiên cứu (trung bình 12,0, IQR 9,3-16,5; P = 0,041).
- THẢO LUẬN
Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng hình thái tinh trùng tốt hơn liên quan đến khả năng sinh con sống, nhưng không ảnh hưởng đến nguy cơ sảy thai tiếp theo hoặc khả năng mang thai. Ngoài ra, không có mối liên hệ giữa mật độ tinh trùng và trẻ sinh sống. Các yếu tố khác như tuổi và giãn tĩnh mạch thừng tinh cũng được xem xét, nhưng không có kết luận rõ ràng về mối liên hệ với DFI và kết quả sinh sản. Các hạn chế của nghiên cứu này bao gồm việc sử dụng phương pháp đo DFI không trực tiếp đo đứt gãy sợi DNA và thiếu thông tin về tình trạng di truyền của thai nhi bị mất.
Tổng kết lại, nghiên cứu này cho thấy vai trò quan trọng của yếu tố nam giới trong RPL và cần nghiên cứu sâu hơn về mối liên hệ giữa DFI, hình thái tinh trùng và kết quả sinh sản.
- KẾT LUẬN
Nghiên cứu này cho thấy, chỉ số DFI tăng cao được đo bằng SCSA ở nam giới trong các cặp đôi bị RPL, nhưng DFI cao không liên quan đến nguy cơ mất thai lần sau. Thay vào đó, DFI cao làm tăng đáng kể khả năng cặp đôi RPL không mang thai sau khi chuyển phôi. Những người đàn ông trong các cặp đôi này thường có mật độ tinh trùng và hình thái trong phạm vi bình thường, điều này cho thấy một yếu tố nam giới bất kì không xác định được tình trạng suy sinh sản.
TLTK: Krog, Maria Christine, et al. "Prospective reproductive outcomes according to sperm parameters, including DNA fragmentation, in recurrent pregnancy loss." Reproductive BioMedicine Online 49.2 (2024): 103773.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Đột biến PLCZ1 gây ra hiện tượng đa thụ tinh trong điều trị IVF - Ngày đăng: 01-08-2024
Kết quả sinh sản của phôi nang phát triển chậm: ý nghĩa lâm sàng của phôi nang nguyên bội ngày 7 trong chu kỳ chuyển phôi trữ - Ngày đăng: 31-07-2024
Tình trạng sức khỏe sinh sản nam giới hiện tại trên toàn cầu - Ngày đăng: 30-07-2024
So sánh kết quả lâm sàng về xếp loại hình thái phôi giữa chuyển phôi trữ ngày 5 và ngày 6 - Ngày đăng: 30-07-2024
Số lượng phôi phân chia có chất lượng tốt tối ưu để nuôi cấy và chuyển phôi giai đoạn phôi nang ở nhóm phụ nữ từ 38 tuổi - Ngày đăng: 30-07-2024
Tác động của thủy tinh hóa phôi đối với sức khỏe của trẻ đến giai đoạn hai tuổi, so sánh với chuyển phôi tươi - Ngày đăng: 30-07-2024
Ảnh hưởng của sự thay đổi điểm số phôi sau rã đông đến tỷ lệ thành công của chu kỳ chuyển phôi nguyên bội - Ngày đăng: 30-07-2024
Trữ lạnh tinh trùng số lượng ít bằng cách kết hợp Sucrose và Taurine ở hai dụng cụ khác nhau và rã ở hai nhiệt độ khác nhau - Ngày đăng: 30-07-2024
Ảnh hưởng của nuôi cấy đơn và nuôi cấy nhóm lên quá trình phát triển phôi nang và kết quả lâm sàng - Ngày đăng: 30-07-2024
Phân tích thử nghiệm toàn bộ bản sao của tinh trùng người bảo quản lạnh - Ngày đăng: 30-07-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK