Tin tức
on Thursday 20-06-2024 9:13am
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Trịnh Thị Mỹ Ngà, Ths. Lê Thị Bích Phượng- Olea Fertility Nha Trang, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Nha Trang
Giới thiệu
Trong kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (Intracytoplasmic sperm injection- ICSI), noãn cần được tách khỏi phức hợp tế bào hạt bao xung quanh để đánh giá những đặc điểm hình thái. Một số báo cáo trước đây đã chỉ ra hơn một nửa số noãn trưởng thành (metaphase II – MII) thu được sau kích thích buồng trứng có hình thái bất thường và ảnh hưởng đến tỉ lệ thụ tinh. Ngoài ra, theo dõi qua hệ thống nuôi cấy quan sát phôi liên tục timelapse cho thấy hình thái noãn bất thường có thể tác động đến động học, tiềm năng phát triển, chất lượng và tiềm năng làm tổ của phôi. Đánh giá hình thái noãn có thể đồng thời đánh giá được tiềm năng của noãn một cách không xâm lấn, có thể hữu ích trong các chu kỳ cho nhận noãn hoặc đông lạnh noãn để bảo tồn khả năng sinh sản.
Hiện nay, hầu như các nghiên cứu về bất thường hình thái noãn đều tập trung vào các bất thường về không bào, thể vùi, cụm lưới nội chất trơn (smooth endoplasmic reticulum clusterss – ERC), hình thái màng zona (zona pellucida – ZP), bất thường thể cực thứ nhất (frst polar body – PB1) và bất thường khoảng không quanh noãn (perivitelline space – PVS). PVS là khoảng không được tạo thành giữa ZP và tế bào chất, chứa hyaluronan được tổng hợp và tiết ra từ tế bào hạt. PVS có sự hiện diện của các mảnh vỡ tế bào và PVS rộng là hai bất thường đã được nghiên cứu có ảnh hưởng đến kết quả lâm sàng. Các báo cáo trước đây cho thấy có mối tương quan giữa sự hiện diện của bất thường PVS với gonadotropin liều cao và có thể là dấu hiệu trưởng thành quá mức của tế bào. Một số báo cáo cho thấy bất thường PVS ảnh hưởng đến quá trình thụ tinh, chất lượng phôi và tiềm năng làm tổ của phôi nhưng một số khác lại chỉ ra rằng PVS rộng và mảnh vỡ trong PVS không ảnh hưởng gì đến kết quả lâm sàng.
Trong các chu kỳ kích thích buồng trứng, sự hiện diện của noãn có PVS hẹp (narrow PVS – NPVS) tương đối phổ biến.Tuy nhiên, có rất ít báo cáo về tiềm năng lâm sàng của noãn NVPS. Do đó, nghiên cứu này được thực hiện nhằm phân tích ảnh hưởng của noãn NPVS đối với kết quả lâm sàng và xác định xem liệu rằng NPVS có phải là dấu hiệu để đánh giá chất lượng noãn hay không.
Vật liệu và phương pháp
Nghiên cứu hồi cứu thực hiện từ tháng 03 năm 2018 đến tháng 10 năm 2022 và được phân tích trên những bệnh nhân thực hiện hỗ trợ sinh sản sử dụng noãn tự thân. Tiêu chuẩn loại bao gồm các chu kỳ IVF cổ điển, sử dụng môi trường nuôi cấy khác, sử dụng tinh trùng đông lạnh, ICSI cho noãn trưởng thành chậm, chu kỳ IVM-ICSI, và các chu kỳ chỉ có noãn chưa trưởng thành. Nghiên cứu đã thực hiện ICSI cho tổng số 12.755 noãn trưởng thành từ 1976 chu kỳ.
Nghiên cứu so sánh về khả năng đàn hồi của màng bào tương noãn, tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ phôi phân chia (≥ 2 phôi bào), tỉ lệ hình thành phôi nang và tỉ lệ hình thành phôi nang loại tốt giữa nhóm noãn có PVS hẹp NPVS(+) và không có PVS hẹp NPVS(-).
Kết quả nghiên cứu
Chu kỳ có ít nhất một noãn có PVS hẹp được ghi nhận là NPVS(+) và các chu kỳ không có PVS hẹp được ghi nhận là NPVS(-). Nhóm NPVS(-) có 12.121 noãn từ 1698 chu kỳ và nhóm NPVS(+) có 634 noãn từ 278 chu kỳ được ICSI. Kết quả nghiên cứu cho thấy NPVS(+) xuất hiện nhiều ở bệnh nhân trẻ tuổi hơn (37,45 ± 5,14 so với 40,09 ± 4,70, p <0,0001), nồng độ AMH nền cao hơn (3,26 ± 3,22 so với 1,37 ± 1,89, p <0,0001) và nồng độ estradiol khi bắt đầu rụng trứng cao hơn đáng kể (4187,28 ± 2730,38 so với 1987,62 ± 2157,26, p < 0,0001) so với nhóm NPVS(-).
Số noãn trung bình thu được ở chu kì NPVS(+) và chu kì NPVS(-) lần lượt là (17,56 ± 12,57 và 7,34 ± 7,99, p<0,0001). Tỉ lệ noãn MI và GV lần lượt là 8,72% và 8,52% ở nhóm NPVS(+); 6,18% và 7,65% ở nhóm NPVS(-). Tỉ lệ noãn chưa trưởng thành ở nhóm NPVS(+) cao hơn đáng kể so với nhóm NPVS(-) (16,34% ; 12,98%, p<0,0001).
Kết quả nghiên cứu cho thấy ở nhóm NPVS (+), khả năng đàn hồi màng bào tương kém hơn so với nhóm NPVS(-) (aOR 2,572; KTC 95% 2,079-3,181; p<0,0001). Sau ICSI, tỉ lệ thoái hóa ở nhóm NPVS(+) (aOR 1,555; KTC 95% 1,096-2.206; p=0,0133) và tỉ lệ 0PN (aOR 1,387; KTC 95% 1,083-1,775; p=0,0095) cao hơn đáng kể so với nhóm NPVS(-), tuy nhiên tỉ lệ 2PN (aOR 0,761; KTC 95% 0,063-0,929; p=0,0072) thấp hơn. Đánh giá trên kết quả phôi học, nhóm NPVS(+) có tỉ lệ phôi phân chia (aOR 0,501; KTC 95% 0,294-0,853; p=0,0109) và tỉ lệ phân mảnh ở giai đoạn phân chia cao hơn so với nhóm NPVS(-). Ngoài ra, tỉ lệ hình thành phôi nang (aOR 0,612; KTC 95% 0,476-0,788; p=0,0001) và phôi nang loại tốt (aOR 0,588; KTC 95% 0,418-0,746; p<0,0001) cũng giảm đáng kể ở nhóm NPVS(+).
Tỉ lệ thai lâm sàng trong các chu kỳ chuyển phôi nang phát triển từ noãn NPVS(+) thấp hơn so với những chu kỳ chuyển phôi nang phát triển từ noãn NPVS(-) (aOR 0,465; KTC 95% 0,229–0,944; p=0,0340).
Kết luận
Nghiên cứu này cho thấy noãn có PVS hẹp có tỉ lệ thoái hóa cao do khả năng đàn hồi màng bào tương noãn kém. Ngoài ra, phôi có nguồn gốc từ noãn NPVS có tiềm năng phát triển thấp hơn so với noãn không có NPVS. Nghiên cứu đề xuất phôi nang được phát triển từ noãn có NPVS nên được giảm mức độ ưu tiên trong lựa chọn phôi chuyển.
TLTK: Shioya, M., Okabe-Kinoshita, M., Kobayashi, T., Fujita, M., & Takahashi, K. (2024). Human metaphase II oocytes with narrow perivitelline space have poor fertilization, developmental, and pregnancy potentials. Journal of Assisted Reproduction and Genetics, 41(5), 1449-1458. DOI: https://doi.org/10.1007/s10815-024-03084-y
Giới thiệu
Trong kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (Intracytoplasmic sperm injection- ICSI), noãn cần được tách khỏi phức hợp tế bào hạt bao xung quanh để đánh giá những đặc điểm hình thái. Một số báo cáo trước đây đã chỉ ra hơn một nửa số noãn trưởng thành (metaphase II – MII) thu được sau kích thích buồng trứng có hình thái bất thường và ảnh hưởng đến tỉ lệ thụ tinh. Ngoài ra, theo dõi qua hệ thống nuôi cấy quan sát phôi liên tục timelapse cho thấy hình thái noãn bất thường có thể tác động đến động học, tiềm năng phát triển, chất lượng và tiềm năng làm tổ của phôi. Đánh giá hình thái noãn có thể đồng thời đánh giá được tiềm năng của noãn một cách không xâm lấn, có thể hữu ích trong các chu kỳ cho nhận noãn hoặc đông lạnh noãn để bảo tồn khả năng sinh sản.
Hiện nay, hầu như các nghiên cứu về bất thường hình thái noãn đều tập trung vào các bất thường về không bào, thể vùi, cụm lưới nội chất trơn (smooth endoplasmic reticulum clusterss – ERC), hình thái màng zona (zona pellucida – ZP), bất thường thể cực thứ nhất (frst polar body – PB1) và bất thường khoảng không quanh noãn (perivitelline space – PVS). PVS là khoảng không được tạo thành giữa ZP và tế bào chất, chứa hyaluronan được tổng hợp và tiết ra từ tế bào hạt. PVS có sự hiện diện của các mảnh vỡ tế bào và PVS rộng là hai bất thường đã được nghiên cứu có ảnh hưởng đến kết quả lâm sàng. Các báo cáo trước đây cho thấy có mối tương quan giữa sự hiện diện của bất thường PVS với gonadotropin liều cao và có thể là dấu hiệu trưởng thành quá mức của tế bào. Một số báo cáo cho thấy bất thường PVS ảnh hưởng đến quá trình thụ tinh, chất lượng phôi và tiềm năng làm tổ của phôi nhưng một số khác lại chỉ ra rằng PVS rộng và mảnh vỡ trong PVS không ảnh hưởng gì đến kết quả lâm sàng.
Trong các chu kỳ kích thích buồng trứng, sự hiện diện của noãn có PVS hẹp (narrow PVS – NPVS) tương đối phổ biến.Tuy nhiên, có rất ít báo cáo về tiềm năng lâm sàng của noãn NVPS. Do đó, nghiên cứu này được thực hiện nhằm phân tích ảnh hưởng của noãn NPVS đối với kết quả lâm sàng và xác định xem liệu rằng NPVS có phải là dấu hiệu để đánh giá chất lượng noãn hay không.
Vật liệu và phương pháp
Nghiên cứu hồi cứu thực hiện từ tháng 03 năm 2018 đến tháng 10 năm 2022 và được phân tích trên những bệnh nhân thực hiện hỗ trợ sinh sản sử dụng noãn tự thân. Tiêu chuẩn loại bao gồm các chu kỳ IVF cổ điển, sử dụng môi trường nuôi cấy khác, sử dụng tinh trùng đông lạnh, ICSI cho noãn trưởng thành chậm, chu kỳ IVM-ICSI, và các chu kỳ chỉ có noãn chưa trưởng thành. Nghiên cứu đã thực hiện ICSI cho tổng số 12.755 noãn trưởng thành từ 1976 chu kỳ.
Nghiên cứu so sánh về khả năng đàn hồi của màng bào tương noãn, tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ phôi phân chia (≥ 2 phôi bào), tỉ lệ hình thành phôi nang và tỉ lệ hình thành phôi nang loại tốt giữa nhóm noãn có PVS hẹp NPVS(+) và không có PVS hẹp NPVS(-).
Kết quả nghiên cứu
Chu kỳ có ít nhất một noãn có PVS hẹp được ghi nhận là NPVS(+) và các chu kỳ không có PVS hẹp được ghi nhận là NPVS(-). Nhóm NPVS(-) có 12.121 noãn từ 1698 chu kỳ và nhóm NPVS(+) có 634 noãn từ 278 chu kỳ được ICSI. Kết quả nghiên cứu cho thấy NPVS(+) xuất hiện nhiều ở bệnh nhân trẻ tuổi hơn (37,45 ± 5,14 so với 40,09 ± 4,70, p <0,0001), nồng độ AMH nền cao hơn (3,26 ± 3,22 so với 1,37 ± 1,89, p <0,0001) và nồng độ estradiol khi bắt đầu rụng trứng cao hơn đáng kể (4187,28 ± 2730,38 so với 1987,62 ± 2157,26, p < 0,0001) so với nhóm NPVS(-).
Số noãn trung bình thu được ở chu kì NPVS(+) và chu kì NPVS(-) lần lượt là (17,56 ± 12,57 và 7,34 ± 7,99, p<0,0001). Tỉ lệ noãn MI và GV lần lượt là 8,72% và 8,52% ở nhóm NPVS(+); 6,18% và 7,65% ở nhóm NPVS(-). Tỉ lệ noãn chưa trưởng thành ở nhóm NPVS(+) cao hơn đáng kể so với nhóm NPVS(-) (16,34% ; 12,98%, p<0,0001).
Kết quả nghiên cứu cho thấy ở nhóm NPVS (+), khả năng đàn hồi màng bào tương kém hơn so với nhóm NPVS(-) (aOR 2,572; KTC 95% 2,079-3,181; p<0,0001). Sau ICSI, tỉ lệ thoái hóa ở nhóm NPVS(+) (aOR 1,555; KTC 95% 1,096-2.206; p=0,0133) và tỉ lệ 0PN (aOR 1,387; KTC 95% 1,083-1,775; p=0,0095) cao hơn đáng kể so với nhóm NPVS(-), tuy nhiên tỉ lệ 2PN (aOR 0,761; KTC 95% 0,063-0,929; p=0,0072) thấp hơn. Đánh giá trên kết quả phôi học, nhóm NPVS(+) có tỉ lệ phôi phân chia (aOR 0,501; KTC 95% 0,294-0,853; p=0,0109) và tỉ lệ phân mảnh ở giai đoạn phân chia cao hơn so với nhóm NPVS(-). Ngoài ra, tỉ lệ hình thành phôi nang (aOR 0,612; KTC 95% 0,476-0,788; p=0,0001) và phôi nang loại tốt (aOR 0,588; KTC 95% 0,418-0,746; p<0,0001) cũng giảm đáng kể ở nhóm NPVS(+).
Tỉ lệ thai lâm sàng trong các chu kỳ chuyển phôi nang phát triển từ noãn NPVS(+) thấp hơn so với những chu kỳ chuyển phôi nang phát triển từ noãn NPVS(-) (aOR 0,465; KTC 95% 0,229–0,944; p=0,0340).
Kết luận
Nghiên cứu này cho thấy noãn có PVS hẹp có tỉ lệ thoái hóa cao do khả năng đàn hồi màng bào tương noãn kém. Ngoài ra, phôi có nguồn gốc từ noãn NPVS có tiềm năng phát triển thấp hơn so với noãn không có NPVS. Nghiên cứu đề xuất phôi nang được phát triển từ noãn có NPVS nên được giảm mức độ ưu tiên trong lựa chọn phôi chuyển.
TLTK: Shioya, M., Okabe-Kinoshita, M., Kobayashi, T., Fujita, M., & Takahashi, K. (2024). Human metaphase II oocytes with narrow perivitelline space have poor fertilization, developmental, and pregnancy potentials. Journal of Assisted Reproduction and Genetics, 41(5), 1449-1458. DOI: https://doi.org/10.1007/s10815-024-03084-y
Các tin khác cùng chuyên mục:
Đồng hồ biểu sinh / sinh học và PCOS - Ngày đăng: 15-06-2024
Chế độ ăn uống của bố ảnh hưởng đến chất lượng tinh trùng và sức khỏe của con trai - Ngày đăng: 15-06-2024
Hiệu quả Follitropin delta kết hợp với menotropin trên những bệnh nhân có nguy cơ đáp ứng buồng trứng kém trong thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 15-06-2024
Việc bổ sung FGF2, LIF và IGF1 (FLI) trong quá trình nuôi trưởng thành noãn trong ống nghiệm (in vitro maturation – IVM) ở người giúp tăng cường các dấu hiệu về tiềm năng của giao tử - Ngày đăng: 20-08-2024
Kết quả sinh sản ở bệnh nhân có phân mảnh DNA tinh trùng cao sử dụng tinh trùng từ tinh hoàn cho ICSI: Một phân tích hồi cứu - Ngày đăng: 14-06-2024
Ảnh hưởng của số lần rửa phôi đến kết quả sàng lọc nhiễm sắc thể tiền làm tổ không xâm lấn - Ngày đăng: 14-06-2024
Hiệu quả của xét nghiệm đánh giá khả năng tiếp nhận của niêm mạc tử cung trong việc xác định thời điểm chuyển phôi đông lạnh tối ưu: Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên - Ngày đăng: 14-06-2024
Hiệu quả của hoạt hóa noãn nhân tạo về việc cải thiện kết cục sinh sản ở đối tượng đáp ứng buồng trứng kém: Một nghiên cứu đoàn hệ đơn trung tâm - Ngày đăng: 11-06-2024
PGT-A không cải thiện tỷ lệ trẻ sinh sống ở 705 cặp vợ chồng bị thất bại làm tổ nhiều lần chưa rõ nguyên nhân - Ngày đăng: 11-06-2024
Hiệu quả của việc kết hợp hoạt hóa noãn với kỹ thuật tiêm tinh tử tròn - Ngày đăng: 11-06-2024
Kết quả mang thai ở bệnh nhân vô sinh có hoặc không có bất thường do tăng sản nội mạc tử cung khi thực hiện thụ tinh ống nghiệm: phác đồ dài giai đoạn nang noãn sớm ưu việt hơn phác đồ dài giữa giai đoạn hoàng thể - Ngày đăng: 11-06-2024
Thời hạn chuyển phôi đông lạnh tối ưu - Ngày đăng: 11-06-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK