Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Friday 14-06-2024 1:38am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Trần Hồ Khánh Duyên
Bệnh viện Đại học Y Dược Buôn Ma Thuột
 
Bất thường nhiễm sắc thể ở phôi là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến thất bại của thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Ứng dụng lâm sàng của xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (preimplantation genetic testing – PGT) cho phép lựa chọn và chuyển phôi có nhiễm sắc thể bình thường để tăng tỷ lệ làm tổ và thai lâm sàng, giảm tỷ lệ sẩy thai. Tuy nhiên, do tính xâm lấn của sinh thiết và thiếu đánh giá an toàn lâu dài cho thế hệ sau, việc sử dụng PGT trên lâm sàng hiện bị giới hạn ở một số đối tượng nhất định và PGT không được sử dụng thường xuyên. Công nghệ sàng lọc nhiễm sắc thể không xâm lấn (non-invasive chromosome screening technology – NICS) cho phép sàng lọc các tình trạng nhiễm sắc thể của phôi bằng cách phát hiện vật liệu di truyền tự do trong môi trường nuôi cấy phôi, cho phép lựa chọn và chuyển phôi có nhiễm sắc thể bình thường, từ đó cải thiện kết quả mang thai và giảm sự xuất hiện dị tật bẩm sinh của thai nhi. Sự tồn tại của DNA tự do (cfDNA) trong môi trường nuôi cấy phôi là yếu tố chính trong NICS. Trong suốt quá trình nuôi cấy phôi, cfDNA trong môi trường nuôi cấy liên tục được tạo ra và phân hủy. Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng cfDNA có nguồn gốc từ phôi nang, tế bào Cumulus và thể cực. Sự hiện diện của cfDNA từ các nguồn không phải phôi tạo ra sự tạp nhiễm cfDNA trong môi trường nuôi cấy làm giảm độ chính xác của NICS. Mục đích của nghiên cứu này là tìm hiểu ảnh hưởng của số lần rửa phôi khác nhau trước khi hình thành phôi nang đến độ chính xác trong sàng lọc nhiễm sắc thể tiền làm tổ không xâm lấn (NICS).
 
Trong nghiên cứu này, 68 phôi nang đã được thu thập (12 cặp vợ chồng) từ những bệnh nhân trải qua PGT tại Trung tâm Y học Sinh sản Bệnh viện Hồ Bắc, Trung Quốc từ tháng 2 năm 2021 đến tháng 9 năm 2022. Vào ngày nuôi cấy thứ tư, phôi được rửa ba lần (nhóm NICS1) hoặc mười lần (nhóm NICS2), sau đó phôi được chuyển vào môi trường nuôi cấy mới (25 µL mỗi giọt trên mỗi phôi) để tiếp tục nuôi cấy từng giọt. Môi trường nuôi cấy không có phôi được sử dụng làm đối chứng. Đến ngày thứ 5, những phôi nang đủ chất lượng (phôi nang ≥4BB, được phân loại bằng hệ thống phân loại Gardner, đánh giá phôi nang dựa trên trạng thái nở rộng, khối lượng tế bào bên trong và sự phát triển của lá nuôi phôi) được sinh thiết lá nuôi cùng với môi trường nuôi cấy phôi tương ứng được thu thập để khuếch đại toàn bộ bộ gen (whole genome amplification – WGA) sau đó giải trình tự gen.
 
Sinh thiết tổng cộng 68 phôi nang và tất cả đều khuếch đại thành công tỷ lệ 100% (68/68). Nhóm NICS1 có tỷ lệ khuếch đại thành công là 76,7% (23/30) và nhóm NICS2 có tỷ lệ khuếch đại thành công là 89,5% (34/38). Tuy nhiên, sự khác biệt về tỷ lệ thành công giữa nhóm NICS1 và NICS2 không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Để làm rõ hơn ảnh hưởng của số ngày nuôi cấy phôi đến tỷ lệ khuếch đại thành công, các nhà nghiên cứu đã khuếch đại 44 mẫu môi trường từ phôi nuôi ngày 5 với tỷ lệ khuếch đại thành công là 75,0% (33/44), và 24 mẫu môi trường từ nuôi phôi ngày 6 tỷ lệ là 100% (24/24). Sự khác biệt về tỷ lệ khuếch đại thành công giữa các mẫu môi trường nuôi cấy phôi vào ngày thứ 5 và thứ 6 có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Sử dụng kết quả sàng lọc Nhiễm sắc thể của sinh thiết TE làm đối chứng, sự tương đồng kết quả sàng lọc NST của mẫu môi trường nuôi cấy phôi nhóm NICS1 và NICS2 so với sinh thiết TE lần lượt là 43,5% (23/10) và 73,5% (25/34). Độ nhạy và độ đặc hiệu của việc phát hiện các bất thường về nhiễm sắc thể ở nhóm NICS2 cao hơn nhóm NICS1 (lần lượt là 83,3% so với 60,0%; 62,5% so với 30,8%). Tỷ lệ dương tính giả và tỷ lệ âm tính giả nhóm NICS2 thấp hơn so với nhóm NICS1 (lần lượt là 37,5% so với 69,2%; 16,7% so với 40,0%).
 
NICS mang lại kết quả khả quan sau 10 lần rửa phôi. Những phát hiện này cung cấp một phương pháp mới để giảm lượng nhiễm DNA tự do từ các nguồn không phải phôi trong môi trường nuôi cấy phôi, tối ưu hóa quy trình lấy mẫu và cải thiện độ chính xác của xét nghiệm NICS.
 
Nguồn: Kang X, Wen M, Zheng J, Peng F, Zeng N, Chen Z, Wu Y, Sun H. Influence of the number of washings for embryos on non-invasive preimplantation chromosome screening results. Front Endocrinol (Lausanne). 2024 Mar 26;15:1363851. doi: 10.3389/fendo.2024.1363851. PMID: 38596225; PMCID: PMC11002171.
 

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK