Tin tức
on Friday 14-06-2024 1:36am
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Quảng Thị Phước Tín – IVFMD SIH – Bệnh viện Phụ sản Quốc tế Sài Gòn
Chuyển phôi trữ ngày càng được thực hiện nhiều hơn. Năm 2020, hơn 75% chu kỳ điều trị IVF liên quan đến trữ đông phôi và hơn 200.000 ca chuyển phôi trữ đã được thực hiện tại Hoa Kỳ. Do đó, điều quan trọng là cần xác định các phác đồ chuyển phôi trữ để tối ưu hóa tỷ lệ trẻ sinh sống.
Nội mạc tử cung (NMTC) của phụ nữ chỉ cho phép phôi làm tổ trong 6 - 12 ngày sau rụng trứng. Các phác đồ thay thế hormone chuẩn bị NMTC để chuyển phôi trữ nhằm giảm thời gian tiếp xúc với progesterone tiền làm tổ. Tuy nhiên, thời gian tiếp xúc với progesterone tối ưu vẫn chưa được biết rõ. Xét nghiệm khả năng tiếp nhận NMTC (ERA - Endometrial Receptivity Analysis) là một phương pháp chẩn đoán phiên mã (xác định các biểu hiện gen khác nhau giữa các giai đoạn của chu kỳ kinh nguyệt) để phân loại các mẫu sinh thiết NMTC (tiền tiếp nhận, tiếp nhận sớm, tiếp nhận, tiếp nhận muộn hoặc hậu tiếp nhận).
Xét nghiệm ERA nhằm cải thiện khả năng trẻ sinh sống sau chuyển phôi trữ bằng cách xác định thời gian chuyển phôi tối ưu cho từng bệnh nhân (BN). So sánh tỷ lệ trẻ sinh sống từ chuyển phôi trữ đơn bội theo xét nghiệm khả năng tiếp nhận NMTC với thời gian chuẩn hóa.
Đây là một nghiên cứu mù đôi, ngẫu nhiên đa trung tâm, có nhóm chứng. Những BN đang chuẩn bị chu kỳ điều trị IVF, thực hiện xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (preimplantation genetic testing - PGT) để phát hiện lệch bội và chuyển phôi trữ. Tiêu chí loại trừ bao gồm sẩy thai liên tiếp, thất bại làm tổ liên tiếp, tinh trùng thủ thuật, noãn hiến tặng và các khiếm khuyết giải phẫu buồng tử cung không được cải thiện.
Các phôi nang chất lượng cao (ít nhất là loại BB) được sinh thiết tế bào lá nuôi (trophectoderm – TE) để thực hiện xét nghiệm PGT nhằm phát hiện lệch bội và sau đó phôi được trữ đông. Những BN không có phôi nang để sinh thiết hoặc chỉ có phôi lệch bội sẽ bị loại khỏi nghiên cứu trước khi phân chia ngẫu nhiên. Những BN có ít nhất 1 phôi nang nguyên bội sẽ tiến hành xét nghiệm ERA. Sử dụng estradiol ngoại sinh và khi độ dày NMTC ≥ 7 mm + nồng độ progesterone < 1,5 ng/mL, những BN này sẽ bắt đầu sử dụng 50 mg progesterone tiêm bắp mỗi ngày hoặc 50 mg progesterone tiêm bắp mỗi ngày thứ ba + 200 mg endometrin 2 lần mỗi ngày vì 2 phác đồ điều trị này đều cho thấy kết quả trẻ sinh sống tương đương nhau trong một nghiên cứu RCT (randomized clinical trial) gần đây. Sinh thiết NMTC được thực hiện để kiểm tra khả năng tiếp nhận NMTC ở 123 ± 3 giờ sau lần tiêm progesterone đầu tiên. Những BN không có thông tin về kết quả tiếp nhận NMTC sẽ được xét nghiệm lại.
Những BN trong nhóm chứng (chuyển phôi theo thời gian tiêu chuẩn – không thay đổi thời gian thực hiện thủ thuật) được chuyển đơn phôi trữ nguyên bội 123 ± 3 giờ sau khi bắt đầu dùng progesterone, còn những BN trong nhóm can thiệp (thay đổi thời gian thực hiện thủ thuật) được chuyển đơn phôi trữ nguyên bội theo kết quả khả năng tiếp nhận NMTC. Cả 2 nhóm đều được sử dụng cùng chế độ hỗ trợ hoàng thể trong chu kỳ tiếp nhận NMTC của họ.
Kết cục chính bao gồm thai sinh hóa (β-hCG> 5IU/L), thai lâm sàng (5-7 tuần) và thai diễn tiến (tuần thứ 8-10). Các kết cục phụ gồm: thai sinh hóa (β hCG dương tính nhưng không tiến triển thành thai lâm sàng), sẩy thai lâm sàng (thai lâm sàng không tiến triển thành thai sinh sống) và sẩy thai toàn bộ (sẩy thai lâm sàng và sinh hóa ban đầu, tức là β-hCG dương tính ban đầu, không tiến triển thành thai sinh sống). Những BN có nồng độ β-hCG tăng thích hợp sẽ được siêu âm đầu dò. Những BN có nồng độ β-hCG < 5mIU/mL sẽ ngừng tất cả các loại thuốc và ngừng tham gia nghiên cứu. Những BN phát triển thai kỳ thích hợp tiếp tục sử dụng estradiol và progesterone ngoại sinh cho đến khi thai 10 tuần tuổi và được theo dõi cho đến khi sinh.
Kết quả
Tổng cộng 767 BN được chọn ngẫu nhiên gồm: 381 BN trong nhóm can thiệp và 386 BN trong nhóm chứng. Có 12 BN ngưng tham gia sau khi chọn ngẫu nhiên và bị loại khỏi nghiên cứu.
Chỉ số BMI trung bình là 27 ở cả 2 nhóm. Độ dày NMTC trung bình khi bắt đầu chuyển phôi trữ bằng progesterone là 10 mm ở cả 2 nhóm. Tỷ lệ khả năng tiếp nhận NMTC và không tiếp nhận tương tự nhau giữa các nhóm. Cả 2 nhóm can thiệp và nhóm chứng đều có kết quả không tiếp nhận NMTC > tiếp nhận tương ứng là 55,4% và 53,9%, hầu hết các kết quả được phân loại là tiền tiếp nhận. Có 13 BN cần sinh thiết lần thứ hai để có được kết quả tiếp nhận NMTC có ý nghĩa thống kê, chủ yếu là do RNA không hợp lệ. Chỉ có 1 kết quả cuối cùng được phân loại là hậu tiếp nhận.
Không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ sinh con sống giữa hai nhóm (58,5% nhóm can thiệp so với 61,9% nhóm đối chứng).
Không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ thai hóa sinh và lâm sàng.
Phân tích hậu nghiệm (post hoc) cho thấy thai sinh hóa cao hơn và thai lâm sàng thấp hơn ở nhóm can thiệp khi ERA khuyến nghị thay đổi thời gian chuyển phôi ít nhất 24 giờ so với tiêu chuẩn.
Điểm mạnh của nghiên cứu: Thiết kế ngẫu nhiên, mù đôi, giảm thiểu nguy cơ sai lệch. Sinh thiết nội mạc tử cung được thực hiện ở cả hai nhóm. BN chỉ sử dụng phôi nguyên bội để chuyển và nghiên cứu đạt được quy mô mẫu theo kế hoạch.
Một số hạn chế trong nghiên cứu: Tỷ lệ ngừng tham gia nghiên cứu cao hơn dự đoán (15,7% số BN đã rút khỏi nghiên cứu do không có phôi nguyên bội để chuyển so với dự đoán là chỉ 5%). Những BN thất bại làm tổ và sẩy thai liên tiếp không tham gia vào nghiên cứu, do đó kết quả của nghiên cứu này không thể đề cập đến lợi ích của xét nghiệm khả năng tiếp nhận NMTC ở nhóm BN vô sinh này.
Kết luận
Trong số những BN đang trải qua IVF tạo phôi nang đơn bội, việc sử dụng xét nghiệm khả năng tiếp nhận NMTC để hướng dẫn thời điểm chuyển phôi trữ so với thời điểm chuyển tiêu chuẩn, không cải thiện đáng kể tỷ lệ trẻ sinh sống. Những phát hiện này không ủng hộ việc sử dụng thường xuyên xét nghiệm ERA để hướng dẫn thời điểm chuyển phôi trong quá trình thụ tinh trong ống nghiệm.
Nguồn: DOYLE, Nicole, et al. Effect of timing by endometrial receptivity testing vs standard timing of frozen embryo transfer on live birth in patients undergoing in vitro fertilization: a randomized clinical trial. Jama, 2022, 328.21: 2117-2125.
Chuyển phôi trữ ngày càng được thực hiện nhiều hơn. Năm 2020, hơn 75% chu kỳ điều trị IVF liên quan đến trữ đông phôi và hơn 200.000 ca chuyển phôi trữ đã được thực hiện tại Hoa Kỳ. Do đó, điều quan trọng là cần xác định các phác đồ chuyển phôi trữ để tối ưu hóa tỷ lệ trẻ sinh sống.
Nội mạc tử cung (NMTC) của phụ nữ chỉ cho phép phôi làm tổ trong 6 - 12 ngày sau rụng trứng. Các phác đồ thay thế hormone chuẩn bị NMTC để chuyển phôi trữ nhằm giảm thời gian tiếp xúc với progesterone tiền làm tổ. Tuy nhiên, thời gian tiếp xúc với progesterone tối ưu vẫn chưa được biết rõ. Xét nghiệm khả năng tiếp nhận NMTC (ERA - Endometrial Receptivity Analysis) là một phương pháp chẩn đoán phiên mã (xác định các biểu hiện gen khác nhau giữa các giai đoạn của chu kỳ kinh nguyệt) để phân loại các mẫu sinh thiết NMTC (tiền tiếp nhận, tiếp nhận sớm, tiếp nhận, tiếp nhận muộn hoặc hậu tiếp nhận).
Xét nghiệm ERA nhằm cải thiện khả năng trẻ sinh sống sau chuyển phôi trữ bằng cách xác định thời gian chuyển phôi tối ưu cho từng bệnh nhân (BN). So sánh tỷ lệ trẻ sinh sống từ chuyển phôi trữ đơn bội theo xét nghiệm khả năng tiếp nhận NMTC với thời gian chuẩn hóa.
Đây là một nghiên cứu mù đôi, ngẫu nhiên đa trung tâm, có nhóm chứng. Những BN đang chuẩn bị chu kỳ điều trị IVF, thực hiện xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (preimplantation genetic testing - PGT) để phát hiện lệch bội và chuyển phôi trữ. Tiêu chí loại trừ bao gồm sẩy thai liên tiếp, thất bại làm tổ liên tiếp, tinh trùng thủ thuật, noãn hiến tặng và các khiếm khuyết giải phẫu buồng tử cung không được cải thiện.
Các phôi nang chất lượng cao (ít nhất là loại BB) được sinh thiết tế bào lá nuôi (trophectoderm – TE) để thực hiện xét nghiệm PGT nhằm phát hiện lệch bội và sau đó phôi được trữ đông. Những BN không có phôi nang để sinh thiết hoặc chỉ có phôi lệch bội sẽ bị loại khỏi nghiên cứu trước khi phân chia ngẫu nhiên. Những BN có ít nhất 1 phôi nang nguyên bội sẽ tiến hành xét nghiệm ERA. Sử dụng estradiol ngoại sinh và khi độ dày NMTC ≥ 7 mm + nồng độ progesterone < 1,5 ng/mL, những BN này sẽ bắt đầu sử dụng 50 mg progesterone tiêm bắp mỗi ngày hoặc 50 mg progesterone tiêm bắp mỗi ngày thứ ba + 200 mg endometrin 2 lần mỗi ngày vì 2 phác đồ điều trị này đều cho thấy kết quả trẻ sinh sống tương đương nhau trong một nghiên cứu RCT (randomized clinical trial) gần đây. Sinh thiết NMTC được thực hiện để kiểm tra khả năng tiếp nhận NMTC ở 123 ± 3 giờ sau lần tiêm progesterone đầu tiên. Những BN không có thông tin về kết quả tiếp nhận NMTC sẽ được xét nghiệm lại.
Những BN trong nhóm chứng (chuyển phôi theo thời gian tiêu chuẩn – không thay đổi thời gian thực hiện thủ thuật) được chuyển đơn phôi trữ nguyên bội 123 ± 3 giờ sau khi bắt đầu dùng progesterone, còn những BN trong nhóm can thiệp (thay đổi thời gian thực hiện thủ thuật) được chuyển đơn phôi trữ nguyên bội theo kết quả khả năng tiếp nhận NMTC. Cả 2 nhóm đều được sử dụng cùng chế độ hỗ trợ hoàng thể trong chu kỳ tiếp nhận NMTC của họ.
Kết cục chính bao gồm thai sinh hóa (β-hCG> 5IU/L), thai lâm sàng (5-7 tuần) và thai diễn tiến (tuần thứ 8-10). Các kết cục phụ gồm: thai sinh hóa (β hCG dương tính nhưng không tiến triển thành thai lâm sàng), sẩy thai lâm sàng (thai lâm sàng không tiến triển thành thai sinh sống) và sẩy thai toàn bộ (sẩy thai lâm sàng và sinh hóa ban đầu, tức là β-hCG dương tính ban đầu, không tiến triển thành thai sinh sống). Những BN có nồng độ β-hCG tăng thích hợp sẽ được siêu âm đầu dò. Những BN có nồng độ β-hCG < 5mIU/mL sẽ ngừng tất cả các loại thuốc và ngừng tham gia nghiên cứu. Những BN phát triển thai kỳ thích hợp tiếp tục sử dụng estradiol và progesterone ngoại sinh cho đến khi thai 10 tuần tuổi và được theo dõi cho đến khi sinh.
Kết quả
Tổng cộng 767 BN được chọn ngẫu nhiên gồm: 381 BN trong nhóm can thiệp và 386 BN trong nhóm chứng. Có 12 BN ngưng tham gia sau khi chọn ngẫu nhiên và bị loại khỏi nghiên cứu.
Chỉ số BMI trung bình là 27 ở cả 2 nhóm. Độ dày NMTC trung bình khi bắt đầu chuyển phôi trữ bằng progesterone là 10 mm ở cả 2 nhóm. Tỷ lệ khả năng tiếp nhận NMTC và không tiếp nhận tương tự nhau giữa các nhóm. Cả 2 nhóm can thiệp và nhóm chứng đều có kết quả không tiếp nhận NMTC > tiếp nhận tương ứng là 55,4% và 53,9%, hầu hết các kết quả được phân loại là tiền tiếp nhận. Có 13 BN cần sinh thiết lần thứ hai để có được kết quả tiếp nhận NMTC có ý nghĩa thống kê, chủ yếu là do RNA không hợp lệ. Chỉ có 1 kết quả cuối cùng được phân loại là hậu tiếp nhận.
Không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ sinh con sống giữa hai nhóm (58,5% nhóm can thiệp so với 61,9% nhóm đối chứng).
Không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ thai hóa sinh và lâm sàng.
Phân tích hậu nghiệm (post hoc) cho thấy thai sinh hóa cao hơn và thai lâm sàng thấp hơn ở nhóm can thiệp khi ERA khuyến nghị thay đổi thời gian chuyển phôi ít nhất 24 giờ so với tiêu chuẩn.
Điểm mạnh của nghiên cứu: Thiết kế ngẫu nhiên, mù đôi, giảm thiểu nguy cơ sai lệch. Sinh thiết nội mạc tử cung được thực hiện ở cả hai nhóm. BN chỉ sử dụng phôi nguyên bội để chuyển và nghiên cứu đạt được quy mô mẫu theo kế hoạch.
Một số hạn chế trong nghiên cứu: Tỷ lệ ngừng tham gia nghiên cứu cao hơn dự đoán (15,7% số BN đã rút khỏi nghiên cứu do không có phôi nguyên bội để chuyển so với dự đoán là chỉ 5%). Những BN thất bại làm tổ và sẩy thai liên tiếp không tham gia vào nghiên cứu, do đó kết quả của nghiên cứu này không thể đề cập đến lợi ích của xét nghiệm khả năng tiếp nhận NMTC ở nhóm BN vô sinh này.
Kết luận
Trong số những BN đang trải qua IVF tạo phôi nang đơn bội, việc sử dụng xét nghiệm khả năng tiếp nhận NMTC để hướng dẫn thời điểm chuyển phôi trữ so với thời điểm chuyển tiêu chuẩn, không cải thiện đáng kể tỷ lệ trẻ sinh sống. Những phát hiện này không ủng hộ việc sử dụng thường xuyên xét nghiệm ERA để hướng dẫn thời điểm chuyển phôi trong quá trình thụ tinh trong ống nghiệm.
Nguồn: DOYLE, Nicole, et al. Effect of timing by endometrial receptivity testing vs standard timing of frozen embryo transfer on live birth in patients undergoing in vitro fertilization: a randomized clinical trial. Jama, 2022, 328.21: 2117-2125.
Từ khóa: ERA test, FET, niêm mạc tử cung
Các tin khác cùng chuyên mục:
Hiệu quả của hoạt hóa noãn nhân tạo về việc cải thiện kết cục sinh sản ở đối tượng đáp ứng buồng trứng kém: Một nghiên cứu đoàn hệ đơn trung tâm - Ngày đăng: 11-06-2024
PGT-A không cải thiện tỷ lệ trẻ sinh sống ở 705 cặp vợ chồng bị thất bại làm tổ nhiều lần chưa rõ nguyên nhân - Ngày đăng: 11-06-2024
Hiệu quả của việc kết hợp hoạt hóa noãn với kỹ thuật tiêm tinh tử tròn - Ngày đăng: 11-06-2024
Kết quả mang thai ở bệnh nhân vô sinh có hoặc không có bất thường do tăng sản nội mạc tử cung khi thực hiện thụ tinh ống nghiệm: phác đồ dài giai đoạn nang noãn sớm ưu việt hơn phác đồ dài giữa giai đoạn hoàng thể - Ngày đăng: 11-06-2024
Thời hạn chuyển phôi đông lạnh tối ưu - Ngày đăng: 11-06-2024
Thời hạn chuyển phôi đông lạnh tối ưu - Ngày đăng: 11-06-2024
Vai trò của chức năng tuyến giáp trong vô sinh nam và nữ: tổng quan tường thuật (Phần 2) - Ngày đăng: 08-06-2024
Vai trò của chức năng tuyến giáp trong vô sinh nam và nữ: tổng quan tường thuật (Phần 1) - Ngày đăng: 08-06-2024
Sử dụng những kỹ thuật hỗ trợ sinh sản chi phí cao có thật sự cần thiết? - Ngày đăng: 08-06-2024
Nghiên cứu ngẫu nhiên tiến cứu so sánh kết cục lâm sàng của các phương pháp điều trị IVF khi phôi được nuôi cấy đơn lẻ hoặc nuôi cấy nhóm trong giếng nuôi microwell - Ngày đăng: 06-06-2024
Mối liên hệ giữa việc sử dụng điện thoại và chất lượng tinh trùng ở giới trẻ - Ngày đăng: 06-06-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK