Tin tức
on Tuesday 11-06-2024 10:03am
Danh mục: Tin quốc tế
CNXN. Nguyễn Thị Thanh Huệ, Bệnh viện Đại học Y Dược Buôn Ma Thuột
Công nghệ hỗ trợ sinh sản đã có những tiến bộ lớn trong việc giúp các cặp vợ chồng hiếm muộn có cơ hội mang thai thành công, nhưng đó vẫn là một thách thức trên nhóm bệnh nhân có đáp ứng kích thích buồng trứng kém. Đáp ứng kích thích buồng trứng được đo bằng số lượng noãn được lấy ra sau khi kích thích tối đa, và là một yếu tố dự báo chính của chu kỳ thành công. Số lượng noãn ít hơn dẫn đến phôi chất lượng tốt được hình thành ít hơn, do đó tỷ lệ mang thai thấp hơn so với những người bình thường. Vì vậy, kết quả của chu kỳ phụ thuộc vào một số yếu tố độc lập bao gồm tuổi của cặp vợ chồng, đặc biệt là tuổi vợ, thời gian vô sinh, đáp ứng kích thích buồng trứng, số lượng noãn thu được và các yếu tố tinh dịch. Dựa và phân loại Bologna (không được áp dụng nhiều trong các nghiên cứu) và tiêu chí Poseidon có thể xác định được các trường hợp đáp ứng kích thích buồng trứng kém. Trong tiêu chí Poseidon, lấy ra < 4 noãn được xem là đáp ứng buồng trứng kém. Đáp ứng buồng trứng kém chủ yếu gặp ở phụ nữ lớn tuổi (>35 tuổi), trong đó dự trữ buồng trứng giảm do tăng teo nang noãn và giảm độ nhạy cảm của nang noãn với FSH. Tuy nhiên, bệnh nhân có dự trữ buồng trứng tốt cũng có thể biểu hiện đáp ứng dưới mức tối ưu, có thể là do liều gonadotropin dưới mức tối ưu hoặc đa dạng di truyền ảnh hưởng đến gonadotropin nội sinh hoặc thụ thể của chúng. Trong số các chiến lược điều trị khác nhau được áp dụng để cải thiện tỷ lệ thành công ở những người có đáp ứng buồng trứng kém, tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (Intra-Cytoplasmic Sperm Injection – ICSI) là một bước đột phá lớn, nhưng thất bại thụ tinh có thể xảy ra mặc dù các thông số tinh dịch bình thường. Điều này là do sự thiếu hụt các yếu tố liên quan đến noãn bào, tức là khiếm khuyết trong kích hoạt noãn bào. So với thụ tinh bình thường, nhiều bước tương tác giữa tinh trùng và noãn bào được bỏ qua trong ICSI. Các dao động canxi đầu tiên bắt đầu sau khoảng 30 phút đến vài giờ. Sự chậm trễ này là do thời gian cần thiết của noãn bào để phá vỡ màng của tinh trùng, bộc lộ acrosome và giải phóng yếu tố hoạt hóa noãn (PLC zeta) với tế bào chất noãn bào. Trong quá trình này, vào thời điểm dao động canxi bắt đầu noãn bào có thể già đi, làm giảm tiềm năng sinh sản. Sự ngưng tụ nhiễm sắc thể của tinh trùng cũng bị trì hoãn gây thất bại trong quá trình thụ tinh. Khiếm khuyết yếu tố kích hoạt tế bào noãn dẫn đến ICSI thất bại có thể được điều trị bằng cách hoạt hóa noãn nhân tạo. Hiện nay, có 3 phương pháp để hoạt hóa noãn nhân tạo gồm cơ học, điện và hóa học. Kích hoạt noãn bào hóa học là phương pháp được sử dụng phổ biến, các chất thường được sử dụng là canxi ionophore A213187, ionomycin, stronti clorua, ethanol, puromycin, phorbol ester và thimerosal,…. Nghiên cứu được nhóm tác giả thực hiện với mục đích đánh giá vai trò của hoạt hóa noãn nhân tạo sau ICSI (ICSI-AOA) sử dụng canxi ionophore A213187 trong việc cải thiện tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ làm tổ và tỷ lệ mang thai ở phụ nữ đáp ứng kích thích buồng trứng kém.
Nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu đơn trung tâm được thực hiện từ 08/2019 đến 03/2020 trên 120 phụ nữ được chẩn đoán đáp ứng buồng trứng kém theo tiêu chí Poseidon. Nghiên cứu chia làm hai nhóm: nhóm nghiên cứu – ICSI-AOA (n=50) và nhóm đối chứng chỉ ICSI (n=57).
Kết quả cho thấy, tỷ lệ thụ tinh trung bình trong nhóm nghiên cứu và đối chứng lần lượt là 89,00 (17,37%) so với 83,04 (18,93%) (p = 0,093). Tỷ lệ phôi phân chia trung bình ở hai nhóm là 96,33 (11,33%) so với 92,55 (15,56%) (p = 0,165). Tỷ lệ hình thành phôi nang trung bình là 47,92% (nhóm nghiên cứu) và 44,44% (nhóm đối chứng). Số lượng phôi trung bình được chuyển trong hai nhóm là tương đương nhau lần lượt nhóm nghiên cứu và nhóm đối chứng là 2,14 so với 2,00. Tỷ lệ làm tổ trung bình ở nhóm ICSI-AOA và nhóm ICSI là 27,14 (41,04%) so với 11,74 (26,06%). Tỷ lệ mang thai lâm sàng được phát hiện ở 34,3% phụ nữ trải qua ICSI-AOA so với 20,5% ở nhóm ICSI.
Tóm lại, ICSI-AOA không cải thiện về tỷ lệ thụ tinh, phôi phân chia, tỷ lệ làm tổ và tỷ lệ mang thai lâm sàng trên đối tượng đáp ứng kích thích buồng trứng kém. Đây là nghiên cứu tiến cứu đầu tiên đánh giá hiệu quả của canxi ionophores ở phụ nữ đáp ứng kích thích buồng trứng kém, tuy nhiên cỡ mẫu nghiên cứu nhỏ, cần có nhiều nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn để tăng độ tin cậy.
TLTK: Kaur B, Malik S, Prakash V, Bhatia V, Gupta D. Efficacy of Artificial Oocyte Activation in Improving the Reproductive Outcome in Poor Responders: A Single Centre Cohort Study. J Family Reprod Health. 2023 Mar;17(1):45-53. doi: 10.18502/jfrh.v17i1.11977. PMID: 37538231; PMCID: PMC10394489.
Công nghệ hỗ trợ sinh sản đã có những tiến bộ lớn trong việc giúp các cặp vợ chồng hiếm muộn có cơ hội mang thai thành công, nhưng đó vẫn là một thách thức trên nhóm bệnh nhân có đáp ứng kích thích buồng trứng kém. Đáp ứng kích thích buồng trứng được đo bằng số lượng noãn được lấy ra sau khi kích thích tối đa, và là một yếu tố dự báo chính của chu kỳ thành công. Số lượng noãn ít hơn dẫn đến phôi chất lượng tốt được hình thành ít hơn, do đó tỷ lệ mang thai thấp hơn so với những người bình thường. Vì vậy, kết quả của chu kỳ phụ thuộc vào một số yếu tố độc lập bao gồm tuổi của cặp vợ chồng, đặc biệt là tuổi vợ, thời gian vô sinh, đáp ứng kích thích buồng trứng, số lượng noãn thu được và các yếu tố tinh dịch. Dựa và phân loại Bologna (không được áp dụng nhiều trong các nghiên cứu) và tiêu chí Poseidon có thể xác định được các trường hợp đáp ứng kích thích buồng trứng kém. Trong tiêu chí Poseidon, lấy ra < 4 noãn được xem là đáp ứng buồng trứng kém. Đáp ứng buồng trứng kém chủ yếu gặp ở phụ nữ lớn tuổi (>35 tuổi), trong đó dự trữ buồng trứng giảm do tăng teo nang noãn và giảm độ nhạy cảm của nang noãn với FSH. Tuy nhiên, bệnh nhân có dự trữ buồng trứng tốt cũng có thể biểu hiện đáp ứng dưới mức tối ưu, có thể là do liều gonadotropin dưới mức tối ưu hoặc đa dạng di truyền ảnh hưởng đến gonadotropin nội sinh hoặc thụ thể của chúng. Trong số các chiến lược điều trị khác nhau được áp dụng để cải thiện tỷ lệ thành công ở những người có đáp ứng buồng trứng kém, tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (Intra-Cytoplasmic Sperm Injection – ICSI) là một bước đột phá lớn, nhưng thất bại thụ tinh có thể xảy ra mặc dù các thông số tinh dịch bình thường. Điều này là do sự thiếu hụt các yếu tố liên quan đến noãn bào, tức là khiếm khuyết trong kích hoạt noãn bào. So với thụ tinh bình thường, nhiều bước tương tác giữa tinh trùng và noãn bào được bỏ qua trong ICSI. Các dao động canxi đầu tiên bắt đầu sau khoảng 30 phút đến vài giờ. Sự chậm trễ này là do thời gian cần thiết của noãn bào để phá vỡ màng của tinh trùng, bộc lộ acrosome và giải phóng yếu tố hoạt hóa noãn (PLC zeta) với tế bào chất noãn bào. Trong quá trình này, vào thời điểm dao động canxi bắt đầu noãn bào có thể già đi, làm giảm tiềm năng sinh sản. Sự ngưng tụ nhiễm sắc thể của tinh trùng cũng bị trì hoãn gây thất bại trong quá trình thụ tinh. Khiếm khuyết yếu tố kích hoạt tế bào noãn dẫn đến ICSI thất bại có thể được điều trị bằng cách hoạt hóa noãn nhân tạo. Hiện nay, có 3 phương pháp để hoạt hóa noãn nhân tạo gồm cơ học, điện và hóa học. Kích hoạt noãn bào hóa học là phương pháp được sử dụng phổ biến, các chất thường được sử dụng là canxi ionophore A213187, ionomycin, stronti clorua, ethanol, puromycin, phorbol ester và thimerosal,…. Nghiên cứu được nhóm tác giả thực hiện với mục đích đánh giá vai trò của hoạt hóa noãn nhân tạo sau ICSI (ICSI-AOA) sử dụng canxi ionophore A213187 trong việc cải thiện tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ làm tổ và tỷ lệ mang thai ở phụ nữ đáp ứng kích thích buồng trứng kém.
Nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu đơn trung tâm được thực hiện từ 08/2019 đến 03/2020 trên 120 phụ nữ được chẩn đoán đáp ứng buồng trứng kém theo tiêu chí Poseidon. Nghiên cứu chia làm hai nhóm: nhóm nghiên cứu – ICSI-AOA (n=50) và nhóm đối chứng chỉ ICSI (n=57).
Kết quả cho thấy, tỷ lệ thụ tinh trung bình trong nhóm nghiên cứu và đối chứng lần lượt là 89,00 (17,37%) so với 83,04 (18,93%) (p = 0,093). Tỷ lệ phôi phân chia trung bình ở hai nhóm là 96,33 (11,33%) so với 92,55 (15,56%) (p = 0,165). Tỷ lệ hình thành phôi nang trung bình là 47,92% (nhóm nghiên cứu) và 44,44% (nhóm đối chứng). Số lượng phôi trung bình được chuyển trong hai nhóm là tương đương nhau lần lượt nhóm nghiên cứu và nhóm đối chứng là 2,14 so với 2,00. Tỷ lệ làm tổ trung bình ở nhóm ICSI-AOA và nhóm ICSI là 27,14 (41,04%) so với 11,74 (26,06%). Tỷ lệ mang thai lâm sàng được phát hiện ở 34,3% phụ nữ trải qua ICSI-AOA so với 20,5% ở nhóm ICSI.
Tóm lại, ICSI-AOA không cải thiện về tỷ lệ thụ tinh, phôi phân chia, tỷ lệ làm tổ và tỷ lệ mang thai lâm sàng trên đối tượng đáp ứng kích thích buồng trứng kém. Đây là nghiên cứu tiến cứu đầu tiên đánh giá hiệu quả của canxi ionophores ở phụ nữ đáp ứng kích thích buồng trứng kém, tuy nhiên cỡ mẫu nghiên cứu nhỏ, cần có nhiều nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn để tăng độ tin cậy.
TLTK: Kaur B, Malik S, Prakash V, Bhatia V, Gupta D. Efficacy of Artificial Oocyte Activation in Improving the Reproductive Outcome in Poor Responders: A Single Centre Cohort Study. J Family Reprod Health. 2023 Mar;17(1):45-53. doi: 10.18502/jfrh.v17i1.11977. PMID: 37538231; PMCID: PMC10394489.
Từ khóa: Canxi Ionophore, tiêu chí Poseidon, phân loại Bologna, tiêm tinh trùng vào bào tương (ICSI)
Các tin khác cùng chuyên mục:
PGT-A không cải thiện tỷ lệ trẻ sinh sống ở 705 cặp vợ chồng bị thất bại làm tổ nhiều lần chưa rõ nguyên nhân - Ngày đăng: 11-06-2024
Hiệu quả của việc kết hợp hoạt hóa noãn với kỹ thuật tiêm tinh tử tròn - Ngày đăng: 11-06-2024
Kết quả mang thai ở bệnh nhân vô sinh có hoặc không có bất thường do tăng sản nội mạc tử cung khi thực hiện thụ tinh ống nghiệm: phác đồ dài giai đoạn nang noãn sớm ưu việt hơn phác đồ dài giữa giai đoạn hoàng thể - Ngày đăng: 11-06-2024
Thời hạn chuyển phôi đông lạnh tối ưu - Ngày đăng: 11-06-2024
Thời hạn chuyển phôi đông lạnh tối ưu - Ngày đăng: 11-06-2024
Vai trò của chức năng tuyến giáp trong vô sinh nam và nữ: tổng quan tường thuật (Phần 2) - Ngày đăng: 08-06-2024
Vai trò của chức năng tuyến giáp trong vô sinh nam và nữ: tổng quan tường thuật (Phần 1) - Ngày đăng: 08-06-2024
Sử dụng những kỹ thuật hỗ trợ sinh sản chi phí cao có thật sự cần thiết? - Ngày đăng: 08-06-2024
Nghiên cứu ngẫu nhiên tiến cứu so sánh kết cục lâm sàng của các phương pháp điều trị IVF khi phôi được nuôi cấy đơn lẻ hoặc nuôi cấy nhóm trong giếng nuôi microwell - Ngày đăng: 06-06-2024
Mối liên hệ giữa việc sử dụng điện thoại và chất lượng tinh trùng ở giới trẻ - Ngày đăng: 06-06-2024
Tác động của Microfluidics đến tỷ lệ phôi nang nguyên bội so với ly tâm thang nồng độ: một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên mù đôi chia noãn - Ngày đăng: 04-06-2024
Sự biểu hiện gene trong quá trình hình thành nang noãn vã noãn - Ngày đăng: 04-06-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK