Tin tức
on Thursday 22-12-2022 2:22pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Như Quỳnh – IVF Vạn Hạnh
Trong hỗ trợ sinh sản, kích thích buồng trứng nhằm thúc đẩy sự phát triển của nhiều nang noãn, thu nhận được nhiều noãn trưởng thành vào ngày chọc hút. Khoảng 85% noãn sau chọc hút trưởng thành ở giai đoạn MII (metaphase II), 15% còn lại là những noãn chưa trưởng thành, đang ở giai đoạn MI (metaphase I) (4%) hoặc GV (germinal vesicle) (11%). Trong IVF thông thường, những noãn chưa trưởng thành này không được sử dụng. Tuy nhiên, khả năng buồng trứng đáp ứng lại kích thích buồng trứng rất đa dạng. Trong trường hợp buồng trứng đáp ứng kém và các nang noãn không phát triển đồng bộ thì tỉ lệ noãn chưa trưởng thành vào ngày chọc hút rất cao. Đối với một số bệnh nhân, những noãn chưa trưởng thành này là cơ hội để tăng số lượng noãn trưởng thành mà bệnh nhân có để tạo phôi. Noãn chưa trưởng thành có khả năng phát triển tiếp tục trong điều kiện in vitro.
Trong bài báo này, nhóm tác giả muốn phân tích tỉ lệ thụ tinh và khả năng phát triển phôi giai đoạn sớm của những noãn chưa trưởng thành. Liệu rằng những noãn MII trưởng thành in vitro có tiềm năng ứng dụng lâm sàng trên nhóm bệnh nhân có tỉ lệ noãn trưởng thành thấp hay không.
Nghiên cứu hồi cứu tiến hành phân tích 117 chu kì ICSI của 117 trường hợp bệnh nhân từ tháng 1/2010 đến tháng 12/2018 có số lượng noãn trưởng thành thấp với tỉ lệ noãn trưởng thành < 75% trong một chu kì chọc hút. Nhằm đánh giá khả năng thụ tinh và sự phát triển phôi giai đoạn sớm, nghiên cứu sẽ loại bỏ những bệnh nhân lớn hơn 38 tuổi hoặc bất thường nặng liên quan đến yếu tố nam.
Chọc hút noãn, ICSI và nuôi cấy phôi
Khoảng 1 – 2 giờ sau khi chọc hút, noãn được tách và đánh giá mức độ trưởng thành nhân (đang ở giai đoạn GV, MI hay MII). Lúc này, những noãn MII sẽ được ICSI (nhóm 1, MII – ICSI, n = 244). Noãn MI còn lại sẽ được nuôi cấy tiếp tục trong 18 – 24 giờ. Những noãn MII trưởng thành trong giai đoạn nuôi cấy này sẽ được ICSI (nhóm 2, MI-MII-ICSI, n = 202). 16 – 18 giờ sau ICSI, noãn được kiểm tra thụ tinh, 24 giờ tính từ lúc phát hiện tiền nhân sẽ đánh giá tình trạng phôi phân chia.
Kết quả
Có 117 trường hợp bệnh nhân được phân tích trong nghiên cứu với độ tuổi trung bình là 31,9 tuổi. Các đối tượng bệnh nhân trong nghiên cứu này là vô sinh không rõ nguyên nhân (41%), vô sinh do yếu tố nam (34%), đáp ứng buồng trứng kém (15,3%) và các nguyên nhân khác (9,4%).
Trong 683 noãn chọc hút được, có 244 noãn MII (35,7%), 259 noãn MI (37,9%) và 180 noãn GV sau khi tách. Tiếp tục nuôi cấy 259 noãn MI trong 18 – 24 giờ, có 202 noãn (77,9 %) phát triển đến giai đoạn MII, 57 noãn còn lại (22%) vẫn còn ở giai đoạn MI. Những noãn MII trưởng thành in vitro này sẽ được thực hiện ICSI.
Tỉ lệ thụ tinh 2PN ở nhóm 1 và nhóm 2 lần lượt là 25,8% và 41,6%. Tỉ lệ thụ tinh cao hơn rõ rệt ở nhóm noãn MII trưởng thành in vitro (p = 0,0006). Tuy nhiên, giữa 2 nhóm không ghi nhận thấy sự khác biệt về tỉ lệ phân chia ở giai đoạn phôi sớm vào ngày 2 và ngày 3. Cụ thể:
- Tỉ lệ phôi phân chia ngày 2 giữa nhóm 1 và nhóm 2 lần lượt là 24,6% và 25,2% (p = 0,9126).
- Tỉ lệ phôi phân chia ngày 3 giữa nhóm 1 và nhóm 2 lần lượt là 13,5% và 15,8% (p = 0,5031).
Kết luận
Như vậy, những noãn chưa trưởng thành sau chọc hút có thể phát triển tiếp tục đến giai đoạn MII trong điều kiện nuôi cấy in vitro. Trong nghiên cứu này, noãn MII trưởng thành in vitro có tỉ lệ thụ tinh cao hơn noãn trưởng thành in vivo. Tuy nhiên, kết quả thụ tinh tăng cao không đồng nghĩa với khả năng phát triển thành phôi từ những noãn này. Điều quan trọng là cần nhiều nghiên cứu hơn nữa để xác định các yếu tố in vivo ảnh hưởng đến quá trình trưởng thành noãn cũng như các bất thường liên quan đến nhiễm sắc thể làm phôi phát triển chậm.
Nguồn tham khảo: Yılmaz N, Özyer Ş, Taş D, Özer MC, Türkkanı A, Yılmaz EŞ, Tekin ÖM. Fertilization and early embryonic development of in vitro matured metaphase I oocytes in patients with unexpected low oocyte maturity rate. Zygote. 2022 Jun;30(3):319-23.
Trong hỗ trợ sinh sản, kích thích buồng trứng nhằm thúc đẩy sự phát triển của nhiều nang noãn, thu nhận được nhiều noãn trưởng thành vào ngày chọc hút. Khoảng 85% noãn sau chọc hút trưởng thành ở giai đoạn MII (metaphase II), 15% còn lại là những noãn chưa trưởng thành, đang ở giai đoạn MI (metaphase I) (4%) hoặc GV (germinal vesicle) (11%). Trong IVF thông thường, những noãn chưa trưởng thành này không được sử dụng. Tuy nhiên, khả năng buồng trứng đáp ứng lại kích thích buồng trứng rất đa dạng. Trong trường hợp buồng trứng đáp ứng kém và các nang noãn không phát triển đồng bộ thì tỉ lệ noãn chưa trưởng thành vào ngày chọc hút rất cao. Đối với một số bệnh nhân, những noãn chưa trưởng thành này là cơ hội để tăng số lượng noãn trưởng thành mà bệnh nhân có để tạo phôi. Noãn chưa trưởng thành có khả năng phát triển tiếp tục trong điều kiện in vitro.
Trong bài báo này, nhóm tác giả muốn phân tích tỉ lệ thụ tinh và khả năng phát triển phôi giai đoạn sớm của những noãn chưa trưởng thành. Liệu rằng những noãn MII trưởng thành in vitro có tiềm năng ứng dụng lâm sàng trên nhóm bệnh nhân có tỉ lệ noãn trưởng thành thấp hay không.
Nghiên cứu hồi cứu tiến hành phân tích 117 chu kì ICSI của 117 trường hợp bệnh nhân từ tháng 1/2010 đến tháng 12/2018 có số lượng noãn trưởng thành thấp với tỉ lệ noãn trưởng thành < 75% trong một chu kì chọc hút. Nhằm đánh giá khả năng thụ tinh và sự phát triển phôi giai đoạn sớm, nghiên cứu sẽ loại bỏ những bệnh nhân lớn hơn 38 tuổi hoặc bất thường nặng liên quan đến yếu tố nam.
Chọc hút noãn, ICSI và nuôi cấy phôi
Khoảng 1 – 2 giờ sau khi chọc hút, noãn được tách và đánh giá mức độ trưởng thành nhân (đang ở giai đoạn GV, MI hay MII). Lúc này, những noãn MII sẽ được ICSI (nhóm 1, MII – ICSI, n = 244). Noãn MI còn lại sẽ được nuôi cấy tiếp tục trong 18 – 24 giờ. Những noãn MII trưởng thành trong giai đoạn nuôi cấy này sẽ được ICSI (nhóm 2, MI-MII-ICSI, n = 202). 16 – 18 giờ sau ICSI, noãn được kiểm tra thụ tinh, 24 giờ tính từ lúc phát hiện tiền nhân sẽ đánh giá tình trạng phôi phân chia.
Kết quả
Có 117 trường hợp bệnh nhân được phân tích trong nghiên cứu với độ tuổi trung bình là 31,9 tuổi. Các đối tượng bệnh nhân trong nghiên cứu này là vô sinh không rõ nguyên nhân (41%), vô sinh do yếu tố nam (34%), đáp ứng buồng trứng kém (15,3%) và các nguyên nhân khác (9,4%).
Trong 683 noãn chọc hút được, có 244 noãn MII (35,7%), 259 noãn MI (37,9%) và 180 noãn GV sau khi tách. Tiếp tục nuôi cấy 259 noãn MI trong 18 – 24 giờ, có 202 noãn (77,9 %) phát triển đến giai đoạn MII, 57 noãn còn lại (22%) vẫn còn ở giai đoạn MI. Những noãn MII trưởng thành in vitro này sẽ được thực hiện ICSI.
Tỉ lệ thụ tinh 2PN ở nhóm 1 và nhóm 2 lần lượt là 25,8% và 41,6%. Tỉ lệ thụ tinh cao hơn rõ rệt ở nhóm noãn MII trưởng thành in vitro (p = 0,0006). Tuy nhiên, giữa 2 nhóm không ghi nhận thấy sự khác biệt về tỉ lệ phân chia ở giai đoạn phôi sớm vào ngày 2 và ngày 3. Cụ thể:
- Tỉ lệ phôi phân chia ngày 2 giữa nhóm 1 và nhóm 2 lần lượt là 24,6% và 25,2% (p = 0,9126).
- Tỉ lệ phôi phân chia ngày 3 giữa nhóm 1 và nhóm 2 lần lượt là 13,5% và 15,8% (p = 0,5031).
Kết luận
Như vậy, những noãn chưa trưởng thành sau chọc hút có thể phát triển tiếp tục đến giai đoạn MII trong điều kiện nuôi cấy in vitro. Trong nghiên cứu này, noãn MII trưởng thành in vitro có tỉ lệ thụ tinh cao hơn noãn trưởng thành in vivo. Tuy nhiên, kết quả thụ tinh tăng cao không đồng nghĩa với khả năng phát triển thành phôi từ những noãn này. Điều quan trọng là cần nhiều nghiên cứu hơn nữa để xác định các yếu tố in vivo ảnh hưởng đến quá trình trưởng thành noãn cũng như các bất thường liên quan đến nhiễm sắc thể làm phôi phát triển chậm.
Nguồn tham khảo: Yılmaz N, Özyer Ş, Taş D, Özer MC, Türkkanı A, Yılmaz EŞ, Tekin ÖM. Fertilization and early embryonic development of in vitro matured metaphase I oocytes in patients with unexpected low oocyte maturity rate. Zygote. 2022 Jun;30(3):319-23.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Không bào trong phôi vào ngày nuôi cấy thứ 3 và thứ 4: mối quan hệ với các phác đồ kích thích, sự phát triển phôi, tình trạng nhiễm sắc thể, kết quả thai và trẻ sinh - Ngày đăng: 22-12-2022
Chất lượng tinh dịch và nồng độ hormone sinh sản ở con trai của các cặp vợ chồng hiếm muộn: một nghiên cứu đoàn hệ của Đan Mạch - Ngày đăng: 18-12-2022
Điều trị giãn tĩnh mạch thừng tinh lâm sàng: phương pháp phẫu thuật sử dụng robot - Ngày đăng: 16-12-2022
Tính khả thi của kĩ thuật cắt giãn tĩnh mạch dưới bẹn sử dụng kính lúp trong điều trị vô sinh nam - Ngày đăng: 16-12-2022
Đánh giá chức năng sinh tinh của tinh hoàn bằng phương pháp siêu âm đàn hồi ở bệnh nhân vô sinh do giãn tĩnh mạch thừng tinh - Ngày đăng: 12-12-2022
Nghiên cứu sơ bộ về định lượng hình ảnh mô cảm ứng ảo trong bệnh lý tinh hoàn gây vô sinh nam - Ngày đăng: 12-12-2022
Hàm lượng DNA ty thể phôi nang có ảnh hưởng đến tỷ lệ sảy thai ở bệnh nhân chuyển phôi trữ đơn phôi nguyên bội không? - Ngày đăng: 12-12-2022
Stress oxy hóa và hỗ trợ sinh sản: Một đánh giá toàn diện về vai trò sinh lý stress oxy hóa và các chiến lược để tối ưu hóa môi trường nuôi cấy phôi - Ngày đăng: 12-12-2022
Sức khỏe của những trẻ sinh ra sau chuyển phôi đông lạnh cho đến khi trưởng thành : một nghiên cứu của phần lan - Ngày đăng: 10-12-2022
Xác định hệ vi sinh vật âm đạo có liên quan đến mang thai từ thụ tinh ống nghiệm - Ngày đăng: 10-12-2022
Phụ nữ có nên cố gắng sinh thường sau mổ lấy thai? - Ngày đăng: 03-12-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK