Tin tức
on Monday 12-12-2022 7:57am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Khổng Tiết Mây Như – IVFMD
Tinh hoàn là tuyến sinh dục quan trọng, đóng vai trò sinh tồn đối với đời sống của nam giới. Trong những năm gần đây, tỉ lệ mắc bệnh lý về tinh hoàn ngày càng tăng. Siêu âm là phương pháp hình ảnh được sử dụng phổ biến để đánh giá tinh hoàn và bệnh lý tinh hoàn vì độ phân giải cao, chức năng doppler sẵn có và không có bức xạ ion hóa. Đặc biệt, định lượng hình ảnh mô cảm ứng ảo (virtual touch tissue imaging quantification -VTIQ) là một công nghệ đàn hồi định lượng siêu âm hai chiều dựa trên sóng biến dạng cũng được đề cập nhiều. Vì vậy, bài báo này sử dụng kĩ thuật VTIQ trong siêu âm đánh giá tinh hoàn để chẩn đoán các bệnh thường gặp như sỏi nhỏ tinh hoàn (testicular microlithiasis - TM), giãn tĩnh mạch thừng tinh (varicocele - VC); sau đó, phân tích mối tương quan giữa tốc độ sóng biến dạng tinh hoàn với chất lượng tinh trùng nhằm bước đầu tìm hiểu ứng dụng phương pháp và giá trị chẩn đoán của kĩ thuật định lượng hình ảnh mô mềm bằng sờ nắn trong bệnh lý vô sinh tinh hoàn.
Đối tượng nghiên cứu bao gồm 70 bệnh nhân nam (23-45 tuổi) tham gia từ tháng 6/2019 đến tháng 3/2020, đã có hình ảnh siêu âm hoàn chỉnh (trắng-đen, màu, VTIQ). Điều kiện nhận nghiên là những bệnh nhân khám sức khỏe định kỳ, vô sinh, đau tinh hoàn và rối loạn chức năng tình dục. Những bệnh nhân này được phân vào 3 nhóm (bình thường, TM và VC) thể hiện trên kết quả hình ảnh siêu âm khác nhau:
-Nhóm bình thường (30 người): không có bất thường rõ ràng khi siêu âm tinh hoàn, mào tinh hoàn, tĩnh mạch thừng tinh.
-Nhóm TM (20 người): phát hiện nhiều ổ tăng âm (hyperechoic foci) trong nhu mô tinh hoàn có kích thước ≤3mm và không có bóng cản âm.
-Nhóm VC (20 người): cấu trúc hình ống ngoằn nghèo gần thừng tinh và đầu mào tinh; cấu trúc dạng tổ ong như nhiều túi nhỏ; thành ống mỏng và trong; lòng ống không phản âm hoặc giảm âm và hoạt động như khói; đường kính ống rộng hơn 1,8mm; đường kính trong của tĩnh mạch thừng tinh (spermatic vein) trong nghiệm pháp Valsalva và vị trí thẳng đứng bị mở rộng; trào ngược xảy ra khi nghỉ ngơi và trong lúc giữ hơi >1s.
Kết quả cho thấy:
-Siêu âm đàn hồi sóng biến dạng (shear wave elastography) của tinh hoàn ở 3 nhóm bình thường, TM và VC lần lượt là 0,96-1,43 m/s; 1,34-2,68m/s và 0,84-1,25 m/s.
-Vận tốc sóng biến dạng của tinh hoàn khoảng 1,23 ± 0,29 m/s ở nhóm bình thường; 2,33 ± 1,07 m/s ở nhóm TM và 1,17 ± 0,22 m/s ở nhóm VC.
-Sự khác biệt về vận tốc sóng biến dạng của tinh hoàn ở các tư thế đo khác nhau (đứng, nằm) là có ý nghĩa thống kê (P<0,05).
-Sự khác biệt về vận tốc sóng biến dạng của tinh hoàn tại các vị trí đo khác nhau của tinh hoàn (mặt trước, giữa và sau của tinh hoàn) cũng có ý nghĩa thống kê (P<0,05); trong đó, vận tốc sóng của nhóm TM tại các vị trí trên cao hơn 2 nhóm còn lại.
-Độ tuổi, tỉ lệ sống - mật độ - di động tiến tới của tinh trùng cũng như độ lệch cực đại, cực tiểu, trung bình và độ lệch chuẩn của vận tốc sóng biến dạng tinh hoàn không có mối tương quan với nhau (P>0,05).
Nhìn chung, vận tốc sóng biến dạng đo được ở mặt trước và sau của tinh hoàn cao hơn ở mặt giữa tinh hoàn, điều này có thể liên quan đến cấu trúc giải phẫu tinh hoàn. Bên cạnh đó, vận tốc sóng biến dạng của tinh hoàn và chất lượng tinh trùng có một mối tương quan nhất định. Ngoài ra, bài nghiên cứu sơ bộ trước đây cũng đưa kết luận là kích thước tinh hoàn giảm tương quan với sự tăng vận tốc sóng biến dạng của tinh hoàn nhưng do chất lượng mẫu không đủ nên vẫn còn là nghi vấn.
Tóm lại, công nghệ VTIQ được dùng để đo vận tốc sóng biến dạng ở các độ sâu khác nhau của mô tinh hoàn giữa bệnh nhân giãn tĩnh mạch thừng tinh và nam giới trưởng thành bình thường, đồng thời đưa ra đánh giá định lượng về độ cứng của tinh hoàn, giúp ứng dụng công nghệ VTIQ trong điều trị vô sinh ở nam giới. Vì vậy, VTIQ có thể được áp dụng để chẩn đoán tinh hoàn nam và các bệnh liên quan đến tinh hoàn.
Nguồn: Liu L.C, Xia J.K, Zhu Z.X, Chen W.T, Xu Q. Preliminary study of virtual touch tissue imaging quantification in diffuse testicular diseases of male infertility. 2022 Feb 04.
Tinh hoàn là tuyến sinh dục quan trọng, đóng vai trò sinh tồn đối với đời sống của nam giới. Trong những năm gần đây, tỉ lệ mắc bệnh lý về tinh hoàn ngày càng tăng. Siêu âm là phương pháp hình ảnh được sử dụng phổ biến để đánh giá tinh hoàn và bệnh lý tinh hoàn vì độ phân giải cao, chức năng doppler sẵn có và không có bức xạ ion hóa. Đặc biệt, định lượng hình ảnh mô cảm ứng ảo (virtual touch tissue imaging quantification -VTIQ) là một công nghệ đàn hồi định lượng siêu âm hai chiều dựa trên sóng biến dạng cũng được đề cập nhiều. Vì vậy, bài báo này sử dụng kĩ thuật VTIQ trong siêu âm đánh giá tinh hoàn để chẩn đoán các bệnh thường gặp như sỏi nhỏ tinh hoàn (testicular microlithiasis - TM), giãn tĩnh mạch thừng tinh (varicocele - VC); sau đó, phân tích mối tương quan giữa tốc độ sóng biến dạng tinh hoàn với chất lượng tinh trùng nhằm bước đầu tìm hiểu ứng dụng phương pháp và giá trị chẩn đoán của kĩ thuật định lượng hình ảnh mô mềm bằng sờ nắn trong bệnh lý vô sinh tinh hoàn.
Đối tượng nghiên cứu bao gồm 70 bệnh nhân nam (23-45 tuổi) tham gia từ tháng 6/2019 đến tháng 3/2020, đã có hình ảnh siêu âm hoàn chỉnh (trắng-đen, màu, VTIQ). Điều kiện nhận nghiên là những bệnh nhân khám sức khỏe định kỳ, vô sinh, đau tinh hoàn và rối loạn chức năng tình dục. Những bệnh nhân này được phân vào 3 nhóm (bình thường, TM và VC) thể hiện trên kết quả hình ảnh siêu âm khác nhau:
-Nhóm bình thường (30 người): không có bất thường rõ ràng khi siêu âm tinh hoàn, mào tinh hoàn, tĩnh mạch thừng tinh.
-Nhóm TM (20 người): phát hiện nhiều ổ tăng âm (hyperechoic foci) trong nhu mô tinh hoàn có kích thước ≤3mm và không có bóng cản âm.
-Nhóm VC (20 người): cấu trúc hình ống ngoằn nghèo gần thừng tinh và đầu mào tinh; cấu trúc dạng tổ ong như nhiều túi nhỏ; thành ống mỏng và trong; lòng ống không phản âm hoặc giảm âm và hoạt động như khói; đường kính ống rộng hơn 1,8mm; đường kính trong của tĩnh mạch thừng tinh (spermatic vein) trong nghiệm pháp Valsalva và vị trí thẳng đứng bị mở rộng; trào ngược xảy ra khi nghỉ ngơi và trong lúc giữ hơi >1s.
Kết quả cho thấy:
-Siêu âm đàn hồi sóng biến dạng (shear wave elastography) của tinh hoàn ở 3 nhóm bình thường, TM và VC lần lượt là 0,96-1,43 m/s; 1,34-2,68m/s và 0,84-1,25 m/s.
-Vận tốc sóng biến dạng của tinh hoàn khoảng 1,23 ± 0,29 m/s ở nhóm bình thường; 2,33 ± 1,07 m/s ở nhóm TM và 1,17 ± 0,22 m/s ở nhóm VC.
-Sự khác biệt về vận tốc sóng biến dạng của tinh hoàn ở các tư thế đo khác nhau (đứng, nằm) là có ý nghĩa thống kê (P<0,05).
-Sự khác biệt về vận tốc sóng biến dạng của tinh hoàn tại các vị trí đo khác nhau của tinh hoàn (mặt trước, giữa và sau của tinh hoàn) cũng có ý nghĩa thống kê (P<0,05); trong đó, vận tốc sóng của nhóm TM tại các vị trí trên cao hơn 2 nhóm còn lại.
-Độ tuổi, tỉ lệ sống - mật độ - di động tiến tới của tinh trùng cũng như độ lệch cực đại, cực tiểu, trung bình và độ lệch chuẩn của vận tốc sóng biến dạng tinh hoàn không có mối tương quan với nhau (P>0,05).
Nhìn chung, vận tốc sóng biến dạng đo được ở mặt trước và sau của tinh hoàn cao hơn ở mặt giữa tinh hoàn, điều này có thể liên quan đến cấu trúc giải phẫu tinh hoàn. Bên cạnh đó, vận tốc sóng biến dạng của tinh hoàn và chất lượng tinh trùng có một mối tương quan nhất định. Ngoài ra, bài nghiên cứu sơ bộ trước đây cũng đưa kết luận là kích thước tinh hoàn giảm tương quan với sự tăng vận tốc sóng biến dạng của tinh hoàn nhưng do chất lượng mẫu không đủ nên vẫn còn là nghi vấn.
Tóm lại, công nghệ VTIQ được dùng để đo vận tốc sóng biến dạng ở các độ sâu khác nhau của mô tinh hoàn giữa bệnh nhân giãn tĩnh mạch thừng tinh và nam giới trưởng thành bình thường, đồng thời đưa ra đánh giá định lượng về độ cứng của tinh hoàn, giúp ứng dụng công nghệ VTIQ trong điều trị vô sinh ở nam giới. Vì vậy, VTIQ có thể được áp dụng để chẩn đoán tinh hoàn nam và các bệnh liên quan đến tinh hoàn.
Nguồn: Liu L.C, Xia J.K, Zhu Z.X, Chen W.T, Xu Q. Preliminary study of virtual touch tissue imaging quantification in diffuse testicular diseases of male infertility. 2022 Feb 04.
Từ khóa: Nghiên cứu sơ bộ về định lượng hình ảnh mô cảm ứng ảo trong bệnh lý tinh hoàn gây vô sinh nam
Các tin khác cùng chuyên mục:
Hàm lượng DNA ty thể phôi nang có ảnh hưởng đến tỷ lệ sảy thai ở bệnh nhân chuyển phôi trữ đơn phôi nguyên bội không? - Ngày đăng: 12-12-2022
Stress oxy hóa và hỗ trợ sinh sản: Một đánh giá toàn diện về vai trò sinh lý stress oxy hóa và các chiến lược để tối ưu hóa môi trường nuôi cấy phôi - Ngày đăng: 12-12-2022
Sức khỏe của những trẻ sinh ra sau chuyển phôi đông lạnh cho đến khi trưởng thành : một nghiên cứu của phần lan - Ngày đăng: 10-12-2022
Xác định hệ vi sinh vật âm đạo có liên quan đến mang thai từ thụ tinh ống nghiệm - Ngày đăng: 10-12-2022
Phụ nữ có nên cố gắng sinh thường sau mổ lấy thai? - Ngày đăng: 03-12-2022
Mối liên quan giữa tuổi vợ với giai đoạn phát triển, hình thái, và khả năng làm tổ của phôi nang tiềm năng: một nghiên cứu đoàn hệ đa trung tâm - Ngày đăng: 01-12-2022
Vô sinh có nguyên nhân từ nữ giới có liên quan đến nguy cơ sinh non và nhẹ cân cao hơn: kết quả từ 117 401 trẻ sinh một sau khi thực hiện IVF - Ngày đăng: 01-12-2022
Tác động của sử dụng nền tảng tương tác đa phương tiện đối với mức hiểu biết và tâm lý bệnh nhân trong điều trị hiếm muộn: một nghiên cứu thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát - Ngày đăng: 01-12-2022
Các yếu tố nguy cơ liên quan đến sinh non khi thực hiện IVF/ICSI - Ngày đăng: 26-11-2022
Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sống sau trữ - rã của 6167 phôi nang nguyên bội - Ngày đăng: 26-11-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK