Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Wednesday 13-07-2022 8:14am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Tăng Lê Thái Ngọc – IVFMD Tân Bình
 
Giới thiệu chung
Có một thực tế là phụ nữ trẻ mắc bệnh ung thư sẽ có nguy cơ bị vô sinh trong tương lai vì điều trị ung thư tuy có thể cứu sống bệnh nhân ung thư nhưng lại mang đến những tác động tiêu cực đến dự trữ buồng trứng. Những tác động tiêu cực của các liệu pháp điều trị ung thư đã khiến việc bảo tồn khả năng sinh sản trở thành một phần quan trọng trong việc quản lý bệnh nhân mắc ung thư. Hiện nay, ung thư vú đang là một trong những bệnh lý ác tính phổ biến nhất ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Phụ nữ bị ung thư vú có thể lựa chọn trữ lạnh tế bào noãn hoặc phôi để bảo tồn khả năng sinh sản trước khi điều trị và điều này đòi hỏi quá trình kích thích buồng trứng liên quan đến các liệu trình tiếp xúc ngắn hạn với nồng độ estrogen cao. Sự tăng nhanh estrogen đã dẫn đến những lo ngại về tính an toàn của việc kích thích buồng trứng đối với sự tái phát ung thư, mặc dù có dữ liệu trấn an về sự an toàn của việc tiếp xúc với estrogen trong thời kỳ mang thai và sau điều trị hỗ trợ sinh sản ở những người sống sót sau ung thư vú. Tuy nhiên, những lo ngại này đã mở đường cho sự ra đời của thuốc bổ sung trong phác đồ kích thích buồng trứng. Những thuốc này có khả năng hạn chế việc tiếp xúc với estrogen ở phụ nữ bị ung thư vú đang được kích thích buồng trứng để duy trì khả năng sinh sản. Kể từ đó, nhiều nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu và hồi cứu đã được công bố để so sánh các phác đồ kích thích buồng trứng khác nhau có bổ sung thêm các loại thuốc này ở phụ nữ bị ung thư vú.
 
Các phác đồ kích thích buồng trứng thay thế này bao gồm việc bổ sung tamoxifen- một loại chất điều biến chọn lọc thụ thể estrogen (ER) chọn lọc hoặc letrozole - chất ức chế aromatase, nhưng hiệu quả của chúng chưa được so sánh với các phác đồ kích thích buồng trứng tiêu chuẩn trong bất kỳ thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng nào. Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá hiệu quả của việc kích thích buồng trứng khi bổ sung tamoxifen hoặc letrozole so với kích thích buồng trứng tiêu chuẩn về số lượng phức hợp tế bào noãn (COC) thu được ở phụ nữ bị ung thư vú đã trải qua quá trình kích thích buồng trứng để trữ lạnh tế bào noãn hoặc phôi.
 
Phương pháp
Đây là một thử nghiệm nhãn mở ngẫu nhiên có đối chứng đa trung tâm được thực hiện tại 10 bệnh viện ở Hà Lan và 1 bệnh viện ở Bỉ từ tháng 01/2014 đến tháng 12/2018. Những phụ nữ mắc ung thư vú từ 18–43 tuổi chọn lựa trữ lạnh noãn hoặc phôi đã được chỉ định ngẫu nhiên vào một trong ba nhóm nghiên cứu như sau:
  • Nhóm 1: Kích thích buồng trứng có bổ sung 60 mg tamoxifen mỗi ngày.
  • Nhóm 2: Kích thích buồng trứng có bổ sung 5 mg letrozole.
  • Nhóm 3: Kích thích buồng trứng tiêu chuẩn bao gồm GnRH đối vận, FSH tái tổ hợp và GnRH đồng vận.
 
Quá trình phân nhóm ngẫu nhiên được thực hiện theo tỷ lệ 1: 1: 1. Việc sử dụng biện pháp tránh thai bằng đường uống, tình trạng dương tính với thụ thể ER và số lượng hạch bạch huyết dương tính được chọn để phân tầng mẫu vì những điều này có thể ảnh hưởng đến tiên lượng ung thư vú. Bệnh nhân và người chăm sóc được biết rõ về phương pháp điều trị được chỉ định.
 
Kết quả chính là số lượng COC trung bình thu được khi chọc hút nang noãn. Ngoài ra, các dữ liệu về số lượng tế bào noãn ở giai đoạn MII, số lượng noãn hoặc phôi có thể trữ lại, nồng độ đỉnh estradiol (mức estradiol huyết thanh được đo vào ngày tiêm mũi rụng trứng) và số phụ nữ phải hủy chu kỳ cũng được ghi nhận và đánh giá. Các dữ liệu thu thập được trong nghiên cứu đều chỉ được ghi nhận ở chu kỳ kích thích buồng trứng đầu tiên. Trong thời gian nghiên cứu, 162 phụ nữ được chỉ định ngẫu nhiên vào một trong ba phương pháp kích thích buồng trứng. Tổng cộng đã có 54 lần kích thích buồng trứng cộng với tamoxifen, 53 lần kích thích buồng trứng cộng với letrozole và 55 lần kích thích buồng trứng tiêu chuẩn.
Kết quả
  • Không có sự khác biệt giữa các nhóm 1, 2, và 3 về số lượng COC trung bình thu được (lần lượt là 12,5 ± 10,4, 14,2 ± 9,4 và 13,6 ± 11,6). Sự khác biệt trung bình ở nhóm 1 so với nhóm 3 là 1,13, 95% KTC, 5,70 - 3,43 và 0,58, 95% KTC, 4,03 - 5,20 ở nhóm 2 so với nhóm 3).
  • Sau khi điều chỉnh việc sử dụng biện pháp tránh thai bằng đường uống khi bắt đầu kích thích buồng trứng, tình trạng dương tính ER và tình trạng hạch bạch huyết dương tính, sự khác biệt trung bình ở số lượng COC là 1,11 (95% KTC, 5,58 - 3,35) ở nhóm 1 so với nhóm 2 và 0,30 (95% KTC, 4,19 - 4,78) ở nhóm 2 so với nhóm 3.
  • Không có sự khác biệt về số lượng tế bào noãn hoặc phôi thu nhận được giữa các nhóm. Trong số sáu chu kỳ bị hủy, năm chu kỳ bị hủy vì đáp ứng buồng trứng kém và một vì lý do tâm lý. Đỉnh estradiol trong nhóm 2 thấp hơn đáng kể so với nhóm 1 nhưng lại không có sự khác biệt về đỉnh estradiol ở nhóm 1 và nhóm 3. Ngoài ra, kết quả đã ghi nhận được một trường hợp bệnh nhân ở nhóm 3 nhập viện do hội chứng quá kích buồng trứng.
Kết luận
Ở phụ nữ bị ung thư vú, số lượng COC thu nhận được và số lượng tế bào noãn hoặc phôi được trữ lạnh không bị ảnh hưởng bởi các phác đồ thay thế. Tóm lại, nghiên cứu này cho thấy rằng việc thêm tamoxifen hoặc letrozole vào quy trình kích thích buồng trứng ở phụ nữ bị ung thư vú không ảnh hưởng đến hiệu quả của việc duy trì khả năng sinh sản và mở đường cho việc theo dõi lâu dài về kết quả điều trị ung thư vú và kết quả mang thai của người phụ nữ trong tương lai. Nghiên cứu của chúng tôi cũng nhấn mạnh sự cần thiết của các nghiên cứu chất lượng tốt hơn đối với tất cả phụ nữ lựa chọn bảo tồn khả năng sinh sản trong tình hình các phác đồ kích thích buồng trứng thay thế đã được đưa vào thực hành lâm sàng mà không có đủ các bằng chứng thích hợp.
 
Nguồn: Balkenende, Eva ME, Taghride Dahhan và cs. Fertility preservation for women with breast cancer: a multicentre randomized controlled trial on various ovarian stimulation protocols. Human Reproduction (2022).

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK