Tin tức
on Monday 24-01-2022 7:18am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Thị Minh Phượng – IVFMD Tân Bình
Trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản, lựa chọn phôi được tiến hành dựa trên kinh nghiệm cũng như quy trình tại nơi đó. Ban đầu phôi được chuyển ở giai đoạn phân chia, với sự phát triển của hệ thống nuôi cấy, trường hợp thai diễn tiến sau khi chuyển phôi ở giai đoạn phôi nang được báo cáo vào năm 1995 và đây dần trở thành một xu hướng. Khả năng phát triển lâu hơn là một yếu tố chứng minh khả năng phát triển của phôi giúp tăng khả năng thành công. Tuy nhiên với thời gian nuôi cấy in vitro kéo dài, các yếu tố ngoại sinh có thể gây ảnh hưởng tới phôi. Để lựa chọn phôi, hiện nay hệ thống đánh giá chủ yếu được phát triển dựa trên mô hình của Gardner và Schoolcraft. Đánh giá tập trung vào các biến hình thái học ở giai đoạn phôi nang.
Bên cạnh đó, đánh giá động học thông qua hệ thống time-lapse trong đánh giá phôi cũng được sử dụng phổ biến, nhưng chủ yếu được thực hiện ở giai đoạn phôi phân chia. Kỹ thuật này giúp tạo ra sự đồng nhất trong đánh giá phôi. Bên cạnh đó, cùng với các biến đánh giá phôi thông qua hình thái (mức độ phân mảnh, số lượng phôi bào, đa nhân) giúp cung cấp thêm thông tin cho quyết định lựa chọn phôi chuyển. Tuy vậy, rất ít nghiên cứu đánh giá phôi nang thông qua time-lapse, cho đến hiện nay hầu hết lựa chọn phôi nang chủ yếu dựa trên hình thái (TE, ICM và độ nở rộng). Mặc dù mối liên hệ giữa ngày 3 và ngày 5 giúp dự đoán tiềm năng làm tổ và thai diễn tiến tuy nhiên lại không được đánh giá. Nghiên cứu này được thực hiện với mục đích đánh giá giá trị dự đoán bổ sung của quá trình phát triển phôi giai đoạn phôi nang kết hợp với các thông số hình thái ngày 3 và ngày 5 hiện có.
Đây là một nghiên cứu hồi cứu (2020) được thực hiện từ năm 2015 đến năm 2017 tại bệnh viện đại học Ghent. Có tổng số 996 chu kỳ IVF/ICSI được thực hiện lần đầu tiên, chuyển một phôi nang ngày 5. Đánh giá phôi giai đoạn ngày 3, ngày 5 dựa trên hướng dẫn của đồng thuận Alpha/ESHRE và hệ thống tính điểm của Gardner và Schoolcraft, được chia thành các nhóm phôi xuất sắc, tốt, trung bình và kém.
Một số kết quả thu nhận được:
Kết quả của nghiên cứu cho thấy tỷ lệ thai diễn tiến cao hơn khi chuyển các phôi có sự cải thiện chất lượng từ ngày 3 lên ngày 5, qua đó có thể được coi là một yếu tố bổ trợ để chọn lựa phôi nang khi các phôi nang đều có chất lượng tốt như nhau.
Nguồn: Blank, C., DeCroo, I., Weyers, B., Van Avermaet, L., Tilleman, K., van Rumste, M., ... & Schoot, B. C. (2020). Improvement instead of stability in embryo quality between day 3-5: A possible extra predictor for blastocyst selection. European Journal of Obstetrics & Gynecology and Reproductive Biology, 253, 198-205.
Trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản, lựa chọn phôi được tiến hành dựa trên kinh nghiệm cũng như quy trình tại nơi đó. Ban đầu phôi được chuyển ở giai đoạn phân chia, với sự phát triển của hệ thống nuôi cấy, trường hợp thai diễn tiến sau khi chuyển phôi ở giai đoạn phôi nang được báo cáo vào năm 1995 và đây dần trở thành một xu hướng. Khả năng phát triển lâu hơn là một yếu tố chứng minh khả năng phát triển của phôi giúp tăng khả năng thành công. Tuy nhiên với thời gian nuôi cấy in vitro kéo dài, các yếu tố ngoại sinh có thể gây ảnh hưởng tới phôi. Để lựa chọn phôi, hiện nay hệ thống đánh giá chủ yếu được phát triển dựa trên mô hình của Gardner và Schoolcraft. Đánh giá tập trung vào các biến hình thái học ở giai đoạn phôi nang.
Bên cạnh đó, đánh giá động học thông qua hệ thống time-lapse trong đánh giá phôi cũng được sử dụng phổ biến, nhưng chủ yếu được thực hiện ở giai đoạn phôi phân chia. Kỹ thuật này giúp tạo ra sự đồng nhất trong đánh giá phôi. Bên cạnh đó, cùng với các biến đánh giá phôi thông qua hình thái (mức độ phân mảnh, số lượng phôi bào, đa nhân) giúp cung cấp thêm thông tin cho quyết định lựa chọn phôi chuyển. Tuy vậy, rất ít nghiên cứu đánh giá phôi nang thông qua time-lapse, cho đến hiện nay hầu hết lựa chọn phôi nang chủ yếu dựa trên hình thái (TE, ICM và độ nở rộng). Mặc dù mối liên hệ giữa ngày 3 và ngày 5 giúp dự đoán tiềm năng làm tổ và thai diễn tiến tuy nhiên lại không được đánh giá. Nghiên cứu này được thực hiện với mục đích đánh giá giá trị dự đoán bổ sung của quá trình phát triển phôi giai đoạn phôi nang kết hợp với các thông số hình thái ngày 3 và ngày 5 hiện có.
Đây là một nghiên cứu hồi cứu (2020) được thực hiện từ năm 2015 đến năm 2017 tại bệnh viện đại học Ghent. Có tổng số 996 chu kỳ IVF/ICSI được thực hiện lần đầu tiên, chuyển một phôi nang ngày 5. Đánh giá phôi giai đoạn ngày 3, ngày 5 dựa trên hướng dẫn của đồng thuận Alpha/ESHRE và hệ thống tính điểm của Gardner và Schoolcraft, được chia thành các nhóm phôi xuất sắc, tốt, trung bình và kém.
Một số kết quả thu nhận được:
- Khi chuyển phôi vào ngày 5, tỷ lệ thai diễn tiến (OPR) của phôi xuất sắc là 37,4%. Phân tích đơn biến cho thấy rằng vào ngày thứ 5, các yếu tố: độ nở rộng, ICM và TE đều liên quan tới tỷ lệ OPR, trong đó ICM được nhận thấy là yếu tố tiên lượng mạnh mẽ nhất.
- Sự phát triển của phôi từ ngày 3 lên ngày 5 chỉ có 21% (219/996) giữ nguyên chất lượng của chúng và khi đó có chất lượng ổn định tỷ lệ OPR đạt khoảng 30%.
- Tỷ lệ OPR cao hơn ở nhóm có cải thiện chất lượng so với nhóm không thay đổi chất lượng phôi trong quá trình phát triển từ ngày 3 lên ngày 5 (chất lượng trung bình ngày 3 phát triển thành phôi tốt ngày 5: 50%, phôi kém ngày 3 lên phôi xuất sắc ngày 5: 42%).
Kết quả của nghiên cứu cho thấy tỷ lệ thai diễn tiến cao hơn khi chuyển các phôi có sự cải thiện chất lượng từ ngày 3 lên ngày 5, qua đó có thể được coi là một yếu tố bổ trợ để chọn lựa phôi nang khi các phôi nang đều có chất lượng tốt như nhau.
Nguồn: Blank, C., DeCroo, I., Weyers, B., Van Avermaet, L., Tilleman, K., van Rumste, M., ... & Schoot, B. C. (2020). Improvement instead of stability in embryo quality between day 3-5: A possible extra predictor for blastocyst selection. European Journal of Obstetrics & Gynecology and Reproductive Biology, 253, 198-205.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Mất cân bằng giới tính sau chuyển phôi nang có mối tương quan đến việc sử dụng kỹ thuật ICSI: một phân tích trên 14.892 chu kỳ chuyển đơn phôi - Ngày đăng: 24-01-2022
Hiệu quả của sự kết hợp các phương pháp bảo tồn sinh sản đến kết quả thai lâm sàng - Ngày đăng: 17-01-2022
Chuyển phôi nang giúp làm tăng tỷ lệ sinh sống tích luỹ, giảm thời gian và chi phí điều trị khi so sánh với chuyển phôi phân chia ở những chu kì xin noãn: Một nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên - Ngày đăng: 14-01-2022
Tiêu thụ thực phẩm giàu protein liên quan đến kết quả điều trị vô sinh bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 12-01-2022
Tác dụng của vacxin mRNA chống COVID-19 đối với nồng độ AMH huyết thanh ở phụ nữ - Ngày đăng: 12-01-2022
Kết quả bảo tồn sinh sản ở phụ nữ lạc nội mạc tử cung: so sánh giữa phác đồ kích thích buồng trứng có mồi progestin so với phác đồ đối vận - Ngày đăng: 12-01-2022
Dự đoán số lượng phôi nang có thể dùng để chuyển trong những trường hợp dự định thực hiện PGT-A - Ngày đăng: 10-01-2022
THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM VÀ RỐI LOẠN DI TRUYỀN: 4 HỘI CHỨNG IN DẤU DI TRUYỀN CÓ LIÊN QUAN - Ngày đăng: 08-01-2022
Tác động tiêu cực của sự hiện diện vi-rút HPV và sự tăng phân mảnh DNA tinh trùng đến kết quả điều trị IUI - Ngày đăng: 07-01-2022
Tiến bộ trong khoa học sinh sản cấy ghép: cấy ghép mô tinh hoàn và nuôi cấy tinh trùng trong ống nghiệm - Ngày đăng: 07-01-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK