Tin tức
on Monday 10-01-2022 6:03pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Phạm Duy Tùng – BVĐK Mỹ Đức
Sự ra đời của xét nghiệm sàng lọc di truyền lệch bội tiền làm tổ (Preimplantation genetic testing for aneuploidy - PGT-A) đã giúp ích rất nhiều cho ngành hỗ trợ sinh sản (HTSS) trong việc lựa chọn phôi nguyên bội để chuyển đơn phôi cho bệnh nhân giúp giảm tỷ lệ đa thai, đồng thời hạn chế tỷ lệ sảy thai do phôi mang những bất thường về di truyền. Trong một chu kỳ HTSS, không thể tránh khỏi việc số lượng noãn giảm đi trong quá trình chọc hút, phát triển đến phôi phân chia và phôi nang, đặc biệt là nhóm bệnh nhân lớn tuổi hoặc nhóm đáp ứng với kích thích buồng trứng kém sẽ không có đủ phôi nang để thực hiện sinh thiết. Trong hầu hết các nghiên cứu cho thấy PGT-A cải thiện tỷ lệ thai trên mỗi phôi chuyển, đối tượng bệnh nhân hầu hết đều có dự trữ buồng trứng tốt và có nhiều phôi nang hữu dụng. Ngược lại trong một nghiên cứu đa trung tâm với cỡ mẫu lớn, hầu như không có sự khác biệt về tỷ lệ trẻ sinh sống trên mỗi chu kỳ chuyển phôi ở những phụ nữ trên 35 tuổi khi bắt đầu điều trị. Do đó, nhóm bệnh nhân có được lợi ích lớn từ PGT-A vẫn chưa được xác định.
Nhóm bệnh nhân có dự trữ buồng trứng và đáp ứng tốt với kích thích buồng trứng thường có tỷ lệ thai và tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn khi chuyển phôi nang so với phôi phân chia (với tỷ lệ này lần lượt là 1,30 và 1,48 lần) nhưng cũng đối mặt với nguy cơ không có phôi để chuyển cao hơn khi nuôi phôi đến ngày 5. Hiện nay, vẫn chưa có nghiên cứu nào phân tích về tỷ lệ bệnh nhân có phôi nang đủ chất lượng để thực hiện sinh thiết phôi. Nhóm đặt giả thuyết về việc bệnh nhân lớn tuổi và đáp ứng buồng trứng kém sẽ có ít phôi nang để thực hiện sinh thiết và có ít phôi nguyên bội để chuyển hơn. Từ đó, nghiên cứu này được thực hiện để tìm mối liên hệ giữa tuổi bệnh nhân và số hợp tử ảnh hưởng đến số phôi hữu dụng để tư vấn cho bệnh nhân trước khi thực hiện PGT-A.
Nghiên cứu được thực hiện trên những bệnh nhân thực hiện các chu kỳ điều trị HTSS (IVF hoặc ICSI) bằng noãn tự thân và thực hiện PGT-A. PGT-A được chỉ định cho những bệnh nhân lớn tuổi (>38 tuổi), bệnh nhân có tiền căn sảy thai liên tiếp, bệnh nhân thực hiện sàng lọc bệnh di truyền tiền làm tổ (PGT-M hoặc PGT-SR) hoặc bệnh nhân yêu cầu thực hiện PGT-A. Những trường hợp bị loại khỏi nghiên cứu bao gồm phôi chuyển từ những trung tâm khác đến, sinh thiết phôi phân chia, thực hiện chuyển phôi phân chia, những bệnh nhân thực hiện trữ lạnh noãn, hợp tử hoặc phôi phân chia, cuối cùng là những trường hợp xin noãn. Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu (2021), tập trung vào số lượng phôi nang nguyên bội, bên cạnh đó một số yếu tố được đánh giá thêm là số hợp tử 2PN, phôi phân chia, phôi nang và chất lượng phôi được sinh thiết, tỷ lệ khảm của phôi nang. Những bệnh nhân tham gia vào nghiên cứu được chia thành 2 nhóm: (1) nhóm bệnh nhân có ít hơn 4 hợp tử 2PN (n=85) và nhóm (2) có từ 4 hợp tử 2PN trở lên (n=661), giá trị ngưỡng này được xác định thông qua các nghiên cứu trước đây nhằm xác định những trường hợp có khả năng nuôi đến giai đoạn phôi nang. Từ những dữ liệu thu nhận từ 746 chu kỳ của 571 bệnh nhân, nhóm nghiên cứu nhận thấy một số kết quả như sau:
• Nhóm (1) có nồng độ AMH thấp hơn và FSH cao hơn, cũng như có nguy cơ giảm dự trữ buồng trứng cao hơn, từ đó thường phải kích thích buồng trứng bằng các phác đồ dành cho bệnh nhân đáp ứng kém.
• Những bệnh nhân nhóm (1) ngoài việc có số noãn chọc hút được, số hợp tử và phôi hữu dụng thấp hơn đáng kể so với nhóm có nhiều hơn 4 hợp tử 2PN thì tỷ lệ noãn trưởng thành và tỷ lệ thụ tinh cũng thấp hơn đáng kể so với nhóm (2). Cụ thể, tỷ lệ noãn trưởng thành MII thu nhận được 61,2% so với 78,5% (aRR 0,77, KTC 95%, 0,70-0,85) và tỷ lệ thụ tinh là 57,3% so với 81,1% (aRR 0,75, KTC 95%, 0,67-0,84)
• Tỷ lệ hợp tử phát triển đến giai đoạn phôi phân chia không khác biệt ở cả 2 nhóm (98,7% và 99,6% aRR 0,99, KTC 95%, 0,98-1,21).
• Bệnh nhân nhóm (1) có nguy cơ không có phôi nang cao hơn 9,5 lần và nguy cơ không có phôi nang đủ chất lượng sinh thiết cao hơn 2,6 lần so với nhóm (2) (KTC 95%, lần lượt là 3,97-22,78 và 1,75-3,73).
• Nhóm (1) có số lượng phôi nguyên bội thấp hơn đáng kể so với nhóm (2) (0,33 ± 0,64 so với 2,19 ± 2,65; aRR 0,23, KTC 95%, 0,15-0,34).
• Không có sự khác biệt về số lượng phôi có tỷ lệ khảm thấp ở cả 2 nhóm.
Khi chia nhóm bệnh nhân có ít hơn 4 hợp tử 2PN theo độ tuổi:
• Nhóm nghiên cứu không nhận thấy sự khác biệt về số lượng noãn thu nhận, noãn trưởng thành MII, hợp tử 2PN và phôi phân chia.
• Tỷ lệ hợp tử 2PN phát triển thành phôi phân chia cũng đạt 100% ở tất cả các nhóm tuổi trừ nhóm từ 38-40 tuổi (tỷ lệ 96,1%).
• Bệnh nhân <35 tuổi có tỷ lệ phôi phân chia phát triển đến phôi nang cao hơn so với các nhóm tuổi lớn hơn. Cụ thể tỷ lệ phát triển thành phôi nang từ phôi phân chia ở các nhóm tuổi lần lượt là: <35: 83,3%; 35-37: 68,6%; 30-40: 68,8%; 41-42: 52% và >42: 66,8%.
• So với nhóm bệnh nhân <35 tuổi, nhóm 41-42 tuổi có số lượng phôi nang và phôi nang đủ chất lượng sinh thiết thấp hơn đáng kể. Nhóm bệnh nhân 41-42 tuổi cũng có ít phôi nguyên bội hơn.
• Nhóm bệnh nhân >42 tuổi và có ít hơn 4 hợp tử 2PN không có phôi nguyên bội nào cũng như không có phôi có tỷ lệ khảm thấp.
Nhóm bệnh nhân có nhiều hơn 4 hợp tử 2PN:
• Nhóm bệnh nhân lớn tuổi có số lượng noãn thu nhận được, noãn MII, hợp tử 2PN, phôi phân chia, phôi nang, phôi nang đủ chất lượng sinh thiết, phôi nguyên bội và phôi có tỷ lệ khảm thấp thấp hơn nhóm bệnh nhân trẻ tuổi.
• Tỷ lệ hợp tử phát triển thành phôi phân chia đều đạt 100% trừ nhóm 38-40 tuổi (99,3%).
• Số lượng phôi phát triển thành phôi nang và phôi nguyên bội giảm dần theo nhóm tuổi. Đặc biệt ở nhóm bệnh nhân >42 tuổi tỷ lệ phôi nang nguyên bội cực kỳ thấp (1,7%) và gần như không có phôi nang khảm tỷ lệ thấp.
Các kết quả của nghiên cứu cho thấy tuổi mẹ cao ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ phát triển thành phôi nang cũng như gia tăng tỷ lệ bất thường về di truyền của phôi. Do đó, quan điểm PGT-A giúp tăng tỷ lệ trẻ sinh sống ở nhóm bệnh nhân lớn tuổi sẽ trở nên vô nghĩa trong trường hợp bệnh nhân không có phôi để sử dụng. Ngoài ra, từ kết quả của nghiên cứu tỷ lệ hợp tử phát triển thành phôi phân chia lại không bị ảnh hưởng bởi tuổi người mẹ. Vì vậy, phụ nữ >40 tuổi hoặc có ít hơn 4 hợp tử 2PN có thể cân nhắc chuyển phôi ngày 3 hoặc ngày 5 mà không cần thực hiện xét nghiệm PGT-A.
Nguồn: Gordon CE, Keefe KW, Ginsburg ES, Racowsky C, Lanes A. Embryo attrition in planned PGT-A: predicting the number of available blastocysts for transfer [published online ahead of print, 2022 Jan 3]. J Assist Reprod Genet. 2022;10.1007/s10815-021-02365-0. doi:10.1007/s10815-021-02365-0
Sự ra đời của xét nghiệm sàng lọc di truyền lệch bội tiền làm tổ (Preimplantation genetic testing for aneuploidy - PGT-A) đã giúp ích rất nhiều cho ngành hỗ trợ sinh sản (HTSS) trong việc lựa chọn phôi nguyên bội để chuyển đơn phôi cho bệnh nhân giúp giảm tỷ lệ đa thai, đồng thời hạn chế tỷ lệ sảy thai do phôi mang những bất thường về di truyền. Trong một chu kỳ HTSS, không thể tránh khỏi việc số lượng noãn giảm đi trong quá trình chọc hút, phát triển đến phôi phân chia và phôi nang, đặc biệt là nhóm bệnh nhân lớn tuổi hoặc nhóm đáp ứng với kích thích buồng trứng kém sẽ không có đủ phôi nang để thực hiện sinh thiết. Trong hầu hết các nghiên cứu cho thấy PGT-A cải thiện tỷ lệ thai trên mỗi phôi chuyển, đối tượng bệnh nhân hầu hết đều có dự trữ buồng trứng tốt và có nhiều phôi nang hữu dụng. Ngược lại trong một nghiên cứu đa trung tâm với cỡ mẫu lớn, hầu như không có sự khác biệt về tỷ lệ trẻ sinh sống trên mỗi chu kỳ chuyển phôi ở những phụ nữ trên 35 tuổi khi bắt đầu điều trị. Do đó, nhóm bệnh nhân có được lợi ích lớn từ PGT-A vẫn chưa được xác định.
Nhóm bệnh nhân có dự trữ buồng trứng và đáp ứng tốt với kích thích buồng trứng thường có tỷ lệ thai và tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn khi chuyển phôi nang so với phôi phân chia (với tỷ lệ này lần lượt là 1,30 và 1,48 lần) nhưng cũng đối mặt với nguy cơ không có phôi để chuyển cao hơn khi nuôi phôi đến ngày 5. Hiện nay, vẫn chưa có nghiên cứu nào phân tích về tỷ lệ bệnh nhân có phôi nang đủ chất lượng để thực hiện sinh thiết phôi. Nhóm đặt giả thuyết về việc bệnh nhân lớn tuổi và đáp ứng buồng trứng kém sẽ có ít phôi nang để thực hiện sinh thiết và có ít phôi nguyên bội để chuyển hơn. Từ đó, nghiên cứu này được thực hiện để tìm mối liên hệ giữa tuổi bệnh nhân và số hợp tử ảnh hưởng đến số phôi hữu dụng để tư vấn cho bệnh nhân trước khi thực hiện PGT-A.
Nghiên cứu được thực hiện trên những bệnh nhân thực hiện các chu kỳ điều trị HTSS (IVF hoặc ICSI) bằng noãn tự thân và thực hiện PGT-A. PGT-A được chỉ định cho những bệnh nhân lớn tuổi (>38 tuổi), bệnh nhân có tiền căn sảy thai liên tiếp, bệnh nhân thực hiện sàng lọc bệnh di truyền tiền làm tổ (PGT-M hoặc PGT-SR) hoặc bệnh nhân yêu cầu thực hiện PGT-A. Những trường hợp bị loại khỏi nghiên cứu bao gồm phôi chuyển từ những trung tâm khác đến, sinh thiết phôi phân chia, thực hiện chuyển phôi phân chia, những bệnh nhân thực hiện trữ lạnh noãn, hợp tử hoặc phôi phân chia, cuối cùng là những trường hợp xin noãn. Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu (2021), tập trung vào số lượng phôi nang nguyên bội, bên cạnh đó một số yếu tố được đánh giá thêm là số hợp tử 2PN, phôi phân chia, phôi nang và chất lượng phôi được sinh thiết, tỷ lệ khảm của phôi nang. Những bệnh nhân tham gia vào nghiên cứu được chia thành 2 nhóm: (1) nhóm bệnh nhân có ít hơn 4 hợp tử 2PN (n=85) và nhóm (2) có từ 4 hợp tử 2PN trở lên (n=661), giá trị ngưỡng này được xác định thông qua các nghiên cứu trước đây nhằm xác định những trường hợp có khả năng nuôi đến giai đoạn phôi nang. Từ những dữ liệu thu nhận từ 746 chu kỳ của 571 bệnh nhân, nhóm nghiên cứu nhận thấy một số kết quả như sau:
• Nhóm (1) có nồng độ AMH thấp hơn và FSH cao hơn, cũng như có nguy cơ giảm dự trữ buồng trứng cao hơn, từ đó thường phải kích thích buồng trứng bằng các phác đồ dành cho bệnh nhân đáp ứng kém.
• Những bệnh nhân nhóm (1) ngoài việc có số noãn chọc hút được, số hợp tử và phôi hữu dụng thấp hơn đáng kể so với nhóm có nhiều hơn 4 hợp tử 2PN thì tỷ lệ noãn trưởng thành và tỷ lệ thụ tinh cũng thấp hơn đáng kể so với nhóm (2). Cụ thể, tỷ lệ noãn trưởng thành MII thu nhận được 61,2% so với 78,5% (aRR 0,77, KTC 95%, 0,70-0,85) và tỷ lệ thụ tinh là 57,3% so với 81,1% (aRR 0,75, KTC 95%, 0,67-0,84)
• Tỷ lệ hợp tử phát triển đến giai đoạn phôi phân chia không khác biệt ở cả 2 nhóm (98,7% và 99,6% aRR 0,99, KTC 95%, 0,98-1,21).
• Bệnh nhân nhóm (1) có nguy cơ không có phôi nang cao hơn 9,5 lần và nguy cơ không có phôi nang đủ chất lượng sinh thiết cao hơn 2,6 lần so với nhóm (2) (KTC 95%, lần lượt là 3,97-22,78 và 1,75-3,73).
• Nhóm (1) có số lượng phôi nguyên bội thấp hơn đáng kể so với nhóm (2) (0,33 ± 0,64 so với 2,19 ± 2,65; aRR 0,23, KTC 95%, 0,15-0,34).
• Không có sự khác biệt về số lượng phôi có tỷ lệ khảm thấp ở cả 2 nhóm.
Khi chia nhóm bệnh nhân có ít hơn 4 hợp tử 2PN theo độ tuổi:
• Nhóm nghiên cứu không nhận thấy sự khác biệt về số lượng noãn thu nhận, noãn trưởng thành MII, hợp tử 2PN và phôi phân chia.
• Tỷ lệ hợp tử 2PN phát triển thành phôi phân chia cũng đạt 100% ở tất cả các nhóm tuổi trừ nhóm từ 38-40 tuổi (tỷ lệ 96,1%).
• Bệnh nhân <35 tuổi có tỷ lệ phôi phân chia phát triển đến phôi nang cao hơn so với các nhóm tuổi lớn hơn. Cụ thể tỷ lệ phát triển thành phôi nang từ phôi phân chia ở các nhóm tuổi lần lượt là: <35: 83,3%; 35-37: 68,6%; 30-40: 68,8%; 41-42: 52% và >42: 66,8%.
• So với nhóm bệnh nhân <35 tuổi, nhóm 41-42 tuổi có số lượng phôi nang và phôi nang đủ chất lượng sinh thiết thấp hơn đáng kể. Nhóm bệnh nhân 41-42 tuổi cũng có ít phôi nguyên bội hơn.
• Nhóm bệnh nhân >42 tuổi và có ít hơn 4 hợp tử 2PN không có phôi nguyên bội nào cũng như không có phôi có tỷ lệ khảm thấp.
Nhóm bệnh nhân có nhiều hơn 4 hợp tử 2PN:
• Nhóm bệnh nhân lớn tuổi có số lượng noãn thu nhận được, noãn MII, hợp tử 2PN, phôi phân chia, phôi nang, phôi nang đủ chất lượng sinh thiết, phôi nguyên bội và phôi có tỷ lệ khảm thấp thấp hơn nhóm bệnh nhân trẻ tuổi.
• Tỷ lệ hợp tử phát triển thành phôi phân chia đều đạt 100% trừ nhóm 38-40 tuổi (99,3%).
• Số lượng phôi phát triển thành phôi nang và phôi nguyên bội giảm dần theo nhóm tuổi. Đặc biệt ở nhóm bệnh nhân >42 tuổi tỷ lệ phôi nang nguyên bội cực kỳ thấp (1,7%) và gần như không có phôi nang khảm tỷ lệ thấp.
Các kết quả của nghiên cứu cho thấy tuổi mẹ cao ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ phát triển thành phôi nang cũng như gia tăng tỷ lệ bất thường về di truyền của phôi. Do đó, quan điểm PGT-A giúp tăng tỷ lệ trẻ sinh sống ở nhóm bệnh nhân lớn tuổi sẽ trở nên vô nghĩa trong trường hợp bệnh nhân không có phôi để sử dụng. Ngoài ra, từ kết quả của nghiên cứu tỷ lệ hợp tử phát triển thành phôi phân chia lại không bị ảnh hưởng bởi tuổi người mẹ. Vì vậy, phụ nữ >40 tuổi hoặc có ít hơn 4 hợp tử 2PN có thể cân nhắc chuyển phôi ngày 3 hoặc ngày 5 mà không cần thực hiện xét nghiệm PGT-A.
Nguồn: Gordon CE, Keefe KW, Ginsburg ES, Racowsky C, Lanes A. Embryo attrition in planned PGT-A: predicting the number of available blastocysts for transfer [published online ahead of print, 2022 Jan 3]. J Assist Reprod Genet. 2022;10.1007/s10815-021-02365-0. doi:10.1007/s10815-021-02365-0
Từ khóa: Dự đoán số lượng phôi nang có thể dùng để chuyển trong những trường hợp dự định thực hiện PGT-A
Các tin khác cùng chuyên mục:
THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM VÀ RỐI LOẠN DI TRUYỀN: 4 HỘI CHỨNG IN DẤU DI TRUYỀN CÓ LIÊN QUAN - Ngày đăng: 08-01-2022
Tác động tiêu cực của sự hiện diện vi-rút HPV và sự tăng phân mảnh DNA tinh trùng đến kết quả điều trị IUI - Ngày đăng: 07-01-2022
Tiến bộ trong khoa học sinh sản cấy ghép: cấy ghép mô tinh hoàn và nuôi cấy tinh trùng trong ống nghiệm - Ngày đăng: 07-01-2022
So sánh hiệu quả điều trị của việc chuyển đơn phôi nang chất lượng tốt giữa bệnh nhân bị hội chứng buồng trứng đa nang và bệnh nhân có chức năng phóng noãn bình thường - Ngày đăng: 06-01-2022
So sánh tác dụng của hai nhóm chất gây mê Propofol và Dexmedetomidine trong quá trình chọc hút noãn lên kết quả thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) - Ngày đăng: 06-01-2022
Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ sinh sống sau chu kỳ chuyển phôi tươi ở phụ nữ hiếm muộn sau phẫu thuật bóc u nội mạc tử cung - Ngày đăng: 06-01-2022
Lạc nội mạc tử cung ở bệnh nhân thất bại làm tổ liên tiếp ảnh hưởng đến tỷ lệ sinh sống tích lũy ở chu kỳ IVF/ICSI - Ngày đăng: 06-01-2022
Thời gian kiêng xuất tinh ngắn ở nam giới bình thường (Normozoospermic) có liên quan đến tỷ lệ thai lâm sàng cao hơn ở các cặp vợ chồng hiếm muộn được thực hiện ICSI: Phân tích hồi cứu 1691 chu kỳ - Ngày đăng: 02-01-2022
Kiêng xuất tinh trong thời gian rất ngắn có cải thiện kết quả của công nghệ hỗ trợ sinh sản ở bệnh nhân vô sinh Oligo-Asthenozoospermia nặng không? - Ngày đăng: 02-01-2022
Tác động tổng hợp của chỉ số khối cơ thể ở cả vợ và chồng đối với kết quả mang thai tích lũy sau lần kích thích buồng trứng đầu tiên - Ngày đăng: 02-01-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK