Tin tức
on Friday 30-04-2021 11:22pm
Danh mục: Tin quốc tế
Ths. Lê Thị Bích Phượng - Chuyên viên phôi học - IVFMD Phú Nhuận
Theo khuyến cáo của WHO, mẫu tinh dịch sử dụng cho IVF hoặc ICSI cần được thu nhận tại phòng lấy mẫu của phòng xét nghiệm Nam học nhằm giảm thiểu tác động cuả nhiệt độ và thời gian lên chất lượng mẫu. Bên cạnh đó, WHO cũng khuyến cáo cho những trường hợp không thể lấy mẫu tinh dịch tại cơ sở y tế rằng phải giao mẫu đến phòng xét nghiệm Nam học trong khoảng 1 giờ kể từ lúc lấy mẫu. Cho đến nay, dữ liệu về tác động của địa điểm lấy mẫu và thời gian xử lý lên chất lượng mẫu tinh dịch vẫn còn nhiều hạn chế. Vài nghiên cứu cho thấy việc lấy mẫu tại nhà hay tại cơ sở y tế không có sự khác biệt về chất lượng của mẫu tinh trùng nhưng một số nghiên cứu khác lại chỉ ra rằng mẫu tinh dịch thu nhận tại nhà có mật độ, độ di động và tổng số tinh di động cao hơn đáng kể so với mẫu lấy tại cơ sở y tế. Nghiên cứu của Stimpfel và cộng sự thực hiện so sánh kết quả ở hai nhóm lấy mẫu tinh dịch tại nhà và tại cơ sở y tế cho thấy mật độ và tỉ lệ di động của tinh trùng trong mẫu lấy tại nhà cao hơn đáng kể từ đó tăng tỉ lệ phôi hữu dụng. Các nghiên cứu đánh giá tác động của thời gian lấy mẫu đến khi xử lý mẫu cũng thu hút được nhiều sự chú ý của các nhóm nghiên cứu. Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện nhằm chứng đánh giá tác động của thời gian xử lý mẫu lên kết cục điều trị nhưng kết quả vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Trước diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19, nhiều trung tâm IVF đã xây dựng quy trình lấy mẫu tinh dịch cho bệnh nhân IVF/ICSI tại nhà nhằm tăng cường giãn cách xã hội cũng như giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm cho bệnh nhân. Để xác định liệu rằng việc lấy mẫu tại nhà và thời gian xử lý mẫu có ảnh hưởng đến kết cục điều trị của bệnh nhân hay không, Caitlin R. Sacha đã thực hiện nghiên cứu này bằng cách đánh giá trên các thông số tinh trùng, tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ hình thành phôi nang hữu dụng ngày 5 và tỉ lệ thai của bệnh nhân thực hiện IVF/ICSI
Nghiên cứu hồi cứu thực hiện thu nhận dữ liệu từ tháng 1/2020 đến tháng 7/2020. Nghiên cứu thực hiện so sánh các thông số tinh dịch đồ, kết quả thụ tinh, phôi học và kết quả thai giữa nhóm lấy mẫu tinh dịch tại cơ sở y tế (nhóm 1, n=119) và tại nhà (nhóm 2, n=125).
Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt về độ tuổi của nam và nữ giới ở 2 nhóm. Thời gian kiêng xuất tinh trung bình của nam giới ở nhóm 1 là 3,0 1,7 ngày so với nhóm 2 là 4,1 ± 5,4 ngày (p=0,028). Thời gian trung bình kể từ lúc lấy mẫu đến lúc phân tích mẫu tinh dịch ở nhóm 1 là 35,7 ± 9,4 phút, khác biệt đáng kể với nhóm 2 là 82,6 ± 33,8 phút (p<0,001). Kết quả phân tích tinh dịch đồ cho thấy không có sự khác biệt giữa các thông số tinh trùng ở 2 nhóm. Không có sự khác biệt về tỉ lệ thụ tinh và tỉ lệ hình thành phôi nang hữu dụng ngày 5 ở nhóm 1 và 2, tương ứng là 77,6% với 77,9% (p=0,939) và 51,6% với 55,5% (p=0,225). Ngoài ra, số lượng phôi chuyển, tỉ lệ làm tổ và tỉ lệ thai tương đương giữa hai nhóm. Đánh giá tác động của thời gian từ khi lấy mẫu đến khi phân tích tinh dịch đồ lên các thông số tinh trùng và kết quả phôi học cho thấy thời gian không ảnh hưởng đến tỉ lệ tinh trùng di động, tổng số tinh trùng di động, tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ hình thành phôi nang hữu dụng ngày 5 và tỉ lệ thai.
Kết quả nghiên cứu cho thấy tăng thời gian xử lý mẫu lên đến 2 giờ đối với mẫu tinh dịch thu nhận tại nhà không có tác động tiêu cực đến các thông số tinh trùng và kết quả IVF/ICSI.
Nguồn: Caitlin R. Sacha và cộng sự, 2021; The effect of semen collection location and time to processing on sperm parameters and early IVF/ICSI outcomes. Journal of Assisted Reproduction and Genetics. 10.1007/s10815-021-02128-x
Theo khuyến cáo của WHO, mẫu tinh dịch sử dụng cho IVF hoặc ICSI cần được thu nhận tại phòng lấy mẫu của phòng xét nghiệm Nam học nhằm giảm thiểu tác động cuả nhiệt độ và thời gian lên chất lượng mẫu. Bên cạnh đó, WHO cũng khuyến cáo cho những trường hợp không thể lấy mẫu tinh dịch tại cơ sở y tế rằng phải giao mẫu đến phòng xét nghiệm Nam học trong khoảng 1 giờ kể từ lúc lấy mẫu. Cho đến nay, dữ liệu về tác động của địa điểm lấy mẫu và thời gian xử lý lên chất lượng mẫu tinh dịch vẫn còn nhiều hạn chế. Vài nghiên cứu cho thấy việc lấy mẫu tại nhà hay tại cơ sở y tế không có sự khác biệt về chất lượng của mẫu tinh trùng nhưng một số nghiên cứu khác lại chỉ ra rằng mẫu tinh dịch thu nhận tại nhà có mật độ, độ di động và tổng số tinh di động cao hơn đáng kể so với mẫu lấy tại cơ sở y tế. Nghiên cứu của Stimpfel và cộng sự thực hiện so sánh kết quả ở hai nhóm lấy mẫu tinh dịch tại nhà và tại cơ sở y tế cho thấy mật độ và tỉ lệ di động của tinh trùng trong mẫu lấy tại nhà cao hơn đáng kể từ đó tăng tỉ lệ phôi hữu dụng. Các nghiên cứu đánh giá tác động của thời gian lấy mẫu đến khi xử lý mẫu cũng thu hút được nhiều sự chú ý của các nhóm nghiên cứu. Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện nhằm chứng đánh giá tác động của thời gian xử lý mẫu lên kết cục điều trị nhưng kết quả vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Trước diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19, nhiều trung tâm IVF đã xây dựng quy trình lấy mẫu tinh dịch cho bệnh nhân IVF/ICSI tại nhà nhằm tăng cường giãn cách xã hội cũng như giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm cho bệnh nhân. Để xác định liệu rằng việc lấy mẫu tại nhà và thời gian xử lý mẫu có ảnh hưởng đến kết cục điều trị của bệnh nhân hay không, Caitlin R. Sacha đã thực hiện nghiên cứu này bằng cách đánh giá trên các thông số tinh trùng, tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ hình thành phôi nang hữu dụng ngày 5 và tỉ lệ thai của bệnh nhân thực hiện IVF/ICSI
Nghiên cứu hồi cứu thực hiện thu nhận dữ liệu từ tháng 1/2020 đến tháng 7/2020. Nghiên cứu thực hiện so sánh các thông số tinh dịch đồ, kết quả thụ tinh, phôi học và kết quả thai giữa nhóm lấy mẫu tinh dịch tại cơ sở y tế (nhóm 1, n=119) và tại nhà (nhóm 2, n=125).
Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt về độ tuổi của nam và nữ giới ở 2 nhóm. Thời gian kiêng xuất tinh trung bình của nam giới ở nhóm 1 là 3,0 1,7 ngày so với nhóm 2 là 4,1 ± 5,4 ngày (p=0,028). Thời gian trung bình kể từ lúc lấy mẫu đến lúc phân tích mẫu tinh dịch ở nhóm 1 là 35,7 ± 9,4 phút, khác biệt đáng kể với nhóm 2 là 82,6 ± 33,8 phút (p<0,001). Kết quả phân tích tinh dịch đồ cho thấy không có sự khác biệt giữa các thông số tinh trùng ở 2 nhóm. Không có sự khác biệt về tỉ lệ thụ tinh và tỉ lệ hình thành phôi nang hữu dụng ngày 5 ở nhóm 1 và 2, tương ứng là 77,6% với 77,9% (p=0,939) và 51,6% với 55,5% (p=0,225). Ngoài ra, số lượng phôi chuyển, tỉ lệ làm tổ và tỉ lệ thai tương đương giữa hai nhóm. Đánh giá tác động của thời gian từ khi lấy mẫu đến khi phân tích tinh dịch đồ lên các thông số tinh trùng và kết quả phôi học cho thấy thời gian không ảnh hưởng đến tỉ lệ tinh trùng di động, tổng số tinh trùng di động, tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ hình thành phôi nang hữu dụng ngày 5 và tỉ lệ thai.
Kết quả nghiên cứu cho thấy tăng thời gian xử lý mẫu lên đến 2 giờ đối với mẫu tinh dịch thu nhận tại nhà không có tác động tiêu cực đến các thông số tinh trùng và kết quả IVF/ICSI.
Nguồn: Caitlin R. Sacha và cộng sự, 2021; The effect of semen collection location and time to processing on sperm parameters and early IVF/ICSI outcomes. Journal of Assisted Reproduction and Genetics. 10.1007/s10815-021-02128-x
Các tin khác cùng chuyên mục:
Khả năng thu nhận tinh trùng và kết quả ICSI ở nam giới vô tinh không do tắc: một nghiên cứu tổng quan hệ thống và phân tích cộng gộp - Ngày đăng: 28-04-2021
Mối tương quan giữa đặc điểm hình thái phôi 3PN và nguy cơ bất thường NST ở các chu kỳ ICSI - Ngày đăng: 28-04-2021
Nồng độ của các nội tiết tố và các đặc điểm chẩn đoán của Hội chứng buồng trứng đa nang ở thanh thiếu niên - Ngày đăng: 28-04-2021
Tổng quan hệ thống và phân tích gộp về những yếu tố lối sống ở nữ giới và nguy cơ sẩy thai liên tiếp - Ngày đăng: 27-04-2021
Ảnh hưởng của chế độ ăn ‘‘Địa Trung Hải’’ lên sự phát triển của phôi người trong ống nghiệm: một thử nghiệm ngẫu nhiên mù đôi có đối chứng - Ngày đăng: 26-04-2021
So sánh kết cục thai kỳ của thai giới hạn tăng trưởng theo định nghĩa từ các hướng dẫn thực hành khác nhau - Ngày đăng: 26-04-2021
Tăng trưởng ở trẻ được sinh ra nhờ công nghệ hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 26-04-2021
Mối quan hệ giữa sự phân mảnh DNA ở tinh trùng và tỷ lệ thai sau bơm tinh trùng vào tử cung (IUI). Có nên hạ thấp ngưỡng DFI không? - Ngày đăng: 26-04-2021
Tóm tắt bằng chứng hiện có về những lợi ích và nguy cơ tiềm ẩn của tiêm vaccine COVID-19 trong thai kỳ - Ngày đăng: 26-04-2021
Mối tương quan giữa số lượng phôi nang chất lượng tốt và kết quả trẻ sinh sống sau chuyển đơn phôi nang ở các chu kỳ chuyển phôi tươi hoặc trữ ở chu kì đầu tiên - Ngày đăng: 26-04-2021
Sự thay đổi theo mùa về nhiệt độ, độ ẩm và độ dài ngày có ảnh hưởng đến các thông số tinh dịch - Một nghiên cứu phân tích hồi cứu hơn 8 năm - Ngày đăng: 26-04-2021
Đánh giá các giá trị của noãn tại ngày ICSI (D0) và kết quả của chu kì điều trị - Ngày đăng: 26-04-2021
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK