Tin tức
on Monday 26-04-2021 11:01pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Phạm Thị Kim Ngân - IVFMD Tân Bình
Công nghệ hỗ trợ sinh sản (ART) đã mang lại niềm hạnh phúc cho những người đang phải đối mặt với mong ước có con chưa được thực hiện. Thành công của ART là không thể phủ nhận với sự ra đời của 8 triệu con người, những người sẽ không tồn tại nếu không có những kỹ thuật này (Tessa J Roseboom và cs, 2021). Hầu hết trẻ em được sinh ra nhờ ART có vẻ ngoài khỏe mạnh tuy nhiên những tác động về lâu dài của các kỹ thuật này đối với sự tăng trưởng, phát triển và kết quả sức khỏe của nhóm người này vẫn còn là một câu hỏi lớn (Roseboom, 2018). Trong một số nghiên cứu, người ta nhận thấy rằng trẻ sinh ra từ ART nhẹ cân hơn so với trẻ từ mang thai tự nhiên (Dhalwani và cs, 2016 ; Qin và cs, 2016; Romundstad và cs, 2008). Mức độ khác biệt về tăng trưởng trong giai đoạn thời thơ ấu kéo dài bao lâu hiện không rõ ràng (Bay, 2014). Việc đánh giá tác động của ART đối với sự tăng trưởng ở thời thơ ấu và vị thành niên cần xem xét đến các yếu tố như bệnh vô sinh của bố mẹ (Ceelen và cs, 2008), chiều cao và cân nặng của bố mẹ (Bonduelle và cs, 2005) và những khác biệt có thể có theo giới tính (Bay, 2014). Cũng có thể có sự khác biệt tùy theo loại ART đối với sự phát triển thời thơ ấu (Ceelen và cs, 2008; Bay và cs, 2019). Những khía cạnh này chưa được đề cập đầy đủ trong các nghiên cứu hiện có. Do đó, tác giả Maria C Magnus và cộng sự (2021) đã tiến hành nghiên cứu này nhằm so sánh các kiểu phát triển của trẻ được sinh ra từ ART với trẻ được sinh ra từ mang thai tự nhiên.
Nghiên cứu được tiến hành với dữ liệu của 81.461 trẻ em, 544.113 thanh thiếu niên trên khắp Na Uy. Sự tăng trưởng và phát triển được theo dõi và ghi nhận ở trẻ giai đoạn thời thơ ấu (từ tuần thai 18 đến năm 7 tuổi) và thanh thiếu niên 17 tuổi. So sánh về chiều cao và cân nặng giữa trẻ sinh ra bởi ART và tự nhiên thông qua mô hình hồi quy tuyến tính. Đồng thời, phân tích khác biệt về kích thước cơ thể ở tuổi 17 được thực hiện thông qua mô hình hiệu ứng hỗn hợp tuyến tính.
Kết quả thu được như sau:
Những đứa trẻ được điều trị bằng ART sẽ phát triển trong giai đoạn đầu đời khác với những đứa trẻ được thụ thai tự nhiên. Một phần của sự khác biệt này có thể là do các quy trình ART, nhưng sự khác biệt về tốc độ tăng trưởng cũng phản ánh các yếu tố tiềm ẩn gây nên vô sinh ở bố mẹ. Sự khác biệt về cân nặng và chiều cao liên quan đến ART giảm dần theo tuổi và gần như không còn khi 17 tuổi.
Nguồn: Maria C Magnus, Allen J Wilcox, Elin A Fadum, Håkon K Gjessing, Signe Opdahl, Petur B Juliusson, Liv Bente Romundstad, Siri E Håberg, Growth in children conceived by ART. Human Reproduction 2021; 36. (4): 1074–1082.
Công nghệ hỗ trợ sinh sản (ART) đã mang lại niềm hạnh phúc cho những người đang phải đối mặt với mong ước có con chưa được thực hiện. Thành công của ART là không thể phủ nhận với sự ra đời của 8 triệu con người, những người sẽ không tồn tại nếu không có những kỹ thuật này (Tessa J Roseboom và cs, 2021). Hầu hết trẻ em được sinh ra nhờ ART có vẻ ngoài khỏe mạnh tuy nhiên những tác động về lâu dài của các kỹ thuật này đối với sự tăng trưởng, phát triển và kết quả sức khỏe của nhóm người này vẫn còn là một câu hỏi lớn (Roseboom, 2018). Trong một số nghiên cứu, người ta nhận thấy rằng trẻ sinh ra từ ART nhẹ cân hơn so với trẻ từ mang thai tự nhiên (Dhalwani và cs, 2016 ; Qin và cs, 2016; Romundstad và cs, 2008). Mức độ khác biệt về tăng trưởng trong giai đoạn thời thơ ấu kéo dài bao lâu hiện không rõ ràng (Bay, 2014). Việc đánh giá tác động của ART đối với sự tăng trưởng ở thời thơ ấu và vị thành niên cần xem xét đến các yếu tố như bệnh vô sinh của bố mẹ (Ceelen và cs, 2008), chiều cao và cân nặng của bố mẹ (Bonduelle và cs, 2005) và những khác biệt có thể có theo giới tính (Bay, 2014). Cũng có thể có sự khác biệt tùy theo loại ART đối với sự phát triển thời thơ ấu (Ceelen và cs, 2008; Bay và cs, 2019). Những khía cạnh này chưa được đề cập đầy đủ trong các nghiên cứu hiện có. Do đó, tác giả Maria C Magnus và cộng sự (2021) đã tiến hành nghiên cứu này nhằm so sánh các kiểu phát triển của trẻ được sinh ra từ ART với trẻ được sinh ra từ mang thai tự nhiên.
Nghiên cứu được tiến hành với dữ liệu của 81.461 trẻ em, 544.113 thanh thiếu niên trên khắp Na Uy. Sự tăng trưởng và phát triển được theo dõi và ghi nhận ở trẻ giai đoạn thời thơ ấu (từ tuần thai 18 đến năm 7 tuổi) và thanh thiếu niên 17 tuổi. So sánh về chiều cao và cân nặng giữa trẻ sinh ra bởi ART và tự nhiên thông qua mô hình hồi quy tuyến tính. Đồng thời, phân tích khác biệt về kích thước cơ thể ở tuổi 17 được thực hiện thông qua mô hình hiệu ứng hỗn hợp tuyến tính.
Kết quả thu được như sau:
- 79.740 trẻ em được sinh ra từ mang thai tự nhiên; 1721 trẻ em được sinh ra nhờ ART. Không một đứa trẻ nào chết trong suốt 7 năm đầu đời. Trong nhóm thụ thai tự nhiên, 5279 trẻ em được sinh ra từ các bố mẹ có khả năng sinh sản thấp (subfertility) (hơn 12 tháng tính đến thời điểm thụ thai).
- Khi mới sinh, trẻ từ ART có chiều cao thấp hơn (bé trai-0,3 cm; KTC 95%; -0,5 đến -0,1 và bé gái −0,4 cm; KTC 95%, −0,5 đến −0,3) và cân nặng nhẹ hơn (bé trai −113 gram; KTC 95%; −201 đến −25 và bé gái −107 gram;KTC 95%, −197 đến −17) so với trẻ từ mang thai tự nhiên.
- Sau khoảng 1 tuổi, trẻ sinh ra sau điều trị ART thường cao và nặng hơn một chút cho đến khi 7 tuổi so với trẻ từ mang thai tự nhiên. Tuy nhiên, trẻ sinh ra từ ART không có chiều cao hoặc cân nặng lớn hơn so với trẻ từ mang thai tự nhiên khi ở tuổi 17.
- Trẻ được thụ thai tự nhiên ở những cha mẹ có khả năng sinh sản thấp (subfertility) có mô hình tăng trưởng tương tự như trẻ ART.
- Trẻ sinh ra sau chuyển phôi đông lạnh có chiều cao và cân nặng lớn hơn trong 2 năm đầu so với trẻ sinh ra sau chuyển phôi tươi.
Những đứa trẻ được điều trị bằng ART sẽ phát triển trong giai đoạn đầu đời khác với những đứa trẻ được thụ thai tự nhiên. Một phần của sự khác biệt này có thể là do các quy trình ART, nhưng sự khác biệt về tốc độ tăng trưởng cũng phản ánh các yếu tố tiềm ẩn gây nên vô sinh ở bố mẹ. Sự khác biệt về cân nặng và chiều cao liên quan đến ART giảm dần theo tuổi và gần như không còn khi 17 tuổi.
Nguồn: Maria C Magnus, Allen J Wilcox, Elin A Fadum, Håkon K Gjessing, Signe Opdahl, Petur B Juliusson, Liv Bente Romundstad, Siri E Håberg, Growth in children conceived by ART. Human Reproduction 2021; 36. (4): 1074–1082.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Mối quan hệ giữa sự phân mảnh DNA ở tinh trùng và tỷ lệ thai sau bơm tinh trùng vào tử cung (IUI). Có nên hạ thấp ngưỡng DFI không? - Ngày đăng: 26-04-2021
Tóm tắt bằng chứng hiện có về những lợi ích và nguy cơ tiềm ẩn của tiêm vaccine COVID-19 trong thai kỳ - Ngày đăng: 26-04-2021
Mối tương quan giữa số lượng phôi nang chất lượng tốt và kết quả trẻ sinh sống sau chuyển đơn phôi nang ở các chu kỳ chuyển phôi tươi hoặc trữ ở chu kì đầu tiên - Ngày đăng: 26-04-2021
Sự thay đổi theo mùa về nhiệt độ, độ ẩm và độ dài ngày có ảnh hưởng đến các thông số tinh dịch - Một nghiên cứu phân tích hồi cứu hơn 8 năm - Ngày đăng: 26-04-2021
Đánh giá các giá trị của noãn tại ngày ICSI (D0) và kết quả của chu kì điều trị - Ngày đăng: 26-04-2021
So sánh hiệu quả giữa việc sử dụng cell-free dna trong môi trường nuôi cấy và sinh thiết tế bào lá nuôi trong xét nghiệm di truyền tiền làm tổ - Ngày đăng: 23-04-2021
Ảnh hưởng của tuổi mẹ và hình thái phôi đối với tỉ lệ trẻ sinh sống sau khi chuyển phôi giai đoạn phân chia - Ngày đăng: 23-04-2021
Xác định ảnh hưởng của chất lượng tinh trùng đến sự phát triển của phôi trên mô hình xin cho noãn - Ngày đăng: 23-04-2021
Khả năng áp dụng mô hình lựa chọn phôi sử dụng các thông số động học của time -lapse giữa các labo IVF: một phân tích cộng gộp-tổng quan hệ thống - Ngày đăng: 23-04-2021
Oxytocin liều cao không làm giảm tỷ lệ mổ lấy thai so với liều tiêu chuẩn - Ngày đăng: 23-04-2021
Liệu trì hoãn chuyển phôi trữ lạnh sau khi thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm có làm tăng khả năng có thai? - Ngày đăng: 23-04-2021
Đặc điểm chu kỳ kinh nguyệt liên quan đến nguy cơ mắc đái tháo đường type 2 - Ngày đăng: 23-04-2021
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK