Tin tức
on Monday 26-04-2021 11:02pm
Danh mục: Tin quốc tế
BS. Lê Tiểu My
Thai giới hạn tăng trưởng có thể liên quan đến tăng nguy cơ gặp phải các kết cục xấu của thai kỳ, tăng bệnh suất và tỷ lệ tử vong chu sinh. Gần đây, cả Hội y học mẹ và thai (SMFM) và Hội siêu âm Sản phụ khoa thế giới (ISUOG) đều công bố hướng dẫn thực hành về thai giới hạn tăng trưởng (FGR), tuy nhiên định nghĩa về FGR của hai hướng dẫn này không tương đồng nhau. Theo đó, hướng dẫn từ SMFM định nghĩa FGR là thai nhi có cân nặng ước đoán trên siêu âm hoặc chu vi bụng thai nhi dưới bách phân vị thứ 10 và ISUOG định nghĩa FGR là thai có cân nặng ước đoán trên siêu âm hoặc chu vi bụng dưới bách phân vị thứ 3 kết hợp với các thông số siêu âm Doppler động mạch rốn, động mạch tử cung và động mạch não giữa.
Một phân tích thứ cấp từ dữ liệu của một nghiên cứu tiến cứu đánh giá tăng trưởng thai nhi nhằm so sánh các yếu tố dự báo thai nhỏ và kết cục thai kỳ ở những thai giới hạn tăng trưởng vừa công bố kết quả phân tích được khi so sánh các trường hợp được chẩn đoán FGR theo định nghĩa của hướng dẫn thực hành khác nhau từ SMFM và ISUOG.
Tổng cộng 1054 phụ nữ thỏa tiêu chuẩn tham gia nghiên cứu, là các trường hợp đơn thai, tuổi thai từ 26 0/7 tuần đến 36 6/7 tuần. Trong số đó có 137 (13,0%) trường hợp được chẩn đoán FGR theo tiêu chuẩn của SMFM và 80 (7,6%) trường hợp được chẩn đoán FGR theo định nghĩa của ISUOG. Kết quả phân tích cho thấy định nghĩa FGR của SMFM có độ nhạy cao hơn (54,7%) so với định nghĩa ISUOG FGR (38,1%) trong tiên đoán tình trạng thai nhỏ. Định nghĩa FGR của ISUOG có độ đặc hiệu cao hơn định nghĩa của SMFM (97,1% so với 93,1%). Ngoài ra, giá trị tiên đoán dương (PPV) và tỷ số khả dĩ dương (LR +) của FGR theo định nghĩa ISUOG cũng cao hơn so với định nghĩa của SMFM, với tỷ lệ lần lượt là 66,3% so với 55,5% và 13,1 so với 8,2. Kết cục bất lợi được đánh giá bao gồm: xuất huyết trong não thất độ 3 và 4, tử vong sơ sinh, pH < 7,1, suy hô hấp cấp, chỉ số Apgar 5 phút < 7 và nhập đơn vị săn sóc tích cực sơ sinh (NICU). Cả định nghĩa FGR của SMFM và ISUOG đều dự đoán kém kết cục bất lợi ở trẻ sơ sinh, với độ nhạy lần lượt là 15,1% và 11,5%.
Như vậy, kết quả phân tích được cho thấy hướng dẫn từ SMFM có liên quan đến tỷ lệ phát hiện SGA cao hơn nhưng độ đặc hiệu giảm. Dù định nghĩa FGR theo hướng dẫn nào đều cho thấy khả năng dự đoán bệnh suất tổng hợp ở trẻ sơ sinh đều kém.
Lược dịch từ: Roeckner, J. T., Pressman, K., Odibo, L., Duncan, J. R., & Odibo, A. O. (2021). An outcome‐based comparison of two international guidelines for defining fetal growth restriction. Ultrasound in Obstetrics & Gynecology.
Thai giới hạn tăng trưởng có thể liên quan đến tăng nguy cơ gặp phải các kết cục xấu của thai kỳ, tăng bệnh suất và tỷ lệ tử vong chu sinh. Gần đây, cả Hội y học mẹ và thai (SMFM) và Hội siêu âm Sản phụ khoa thế giới (ISUOG) đều công bố hướng dẫn thực hành về thai giới hạn tăng trưởng (FGR), tuy nhiên định nghĩa về FGR của hai hướng dẫn này không tương đồng nhau. Theo đó, hướng dẫn từ SMFM định nghĩa FGR là thai nhi có cân nặng ước đoán trên siêu âm hoặc chu vi bụng thai nhi dưới bách phân vị thứ 10 và ISUOG định nghĩa FGR là thai có cân nặng ước đoán trên siêu âm hoặc chu vi bụng dưới bách phân vị thứ 3 kết hợp với các thông số siêu âm Doppler động mạch rốn, động mạch tử cung và động mạch não giữa.
Một phân tích thứ cấp từ dữ liệu của một nghiên cứu tiến cứu đánh giá tăng trưởng thai nhi nhằm so sánh các yếu tố dự báo thai nhỏ và kết cục thai kỳ ở những thai giới hạn tăng trưởng vừa công bố kết quả phân tích được khi so sánh các trường hợp được chẩn đoán FGR theo định nghĩa của hướng dẫn thực hành khác nhau từ SMFM và ISUOG.
Tổng cộng 1054 phụ nữ thỏa tiêu chuẩn tham gia nghiên cứu, là các trường hợp đơn thai, tuổi thai từ 26 0/7 tuần đến 36 6/7 tuần. Trong số đó có 137 (13,0%) trường hợp được chẩn đoán FGR theo tiêu chuẩn của SMFM và 80 (7,6%) trường hợp được chẩn đoán FGR theo định nghĩa của ISUOG. Kết quả phân tích cho thấy định nghĩa FGR của SMFM có độ nhạy cao hơn (54,7%) so với định nghĩa ISUOG FGR (38,1%) trong tiên đoán tình trạng thai nhỏ. Định nghĩa FGR của ISUOG có độ đặc hiệu cao hơn định nghĩa của SMFM (97,1% so với 93,1%). Ngoài ra, giá trị tiên đoán dương (PPV) và tỷ số khả dĩ dương (LR +) của FGR theo định nghĩa ISUOG cũng cao hơn so với định nghĩa của SMFM, với tỷ lệ lần lượt là 66,3% so với 55,5% và 13,1 so với 8,2. Kết cục bất lợi được đánh giá bao gồm: xuất huyết trong não thất độ 3 và 4, tử vong sơ sinh, pH < 7,1, suy hô hấp cấp, chỉ số Apgar 5 phút < 7 và nhập đơn vị săn sóc tích cực sơ sinh (NICU). Cả định nghĩa FGR của SMFM và ISUOG đều dự đoán kém kết cục bất lợi ở trẻ sơ sinh, với độ nhạy lần lượt là 15,1% và 11,5%.
Như vậy, kết quả phân tích được cho thấy hướng dẫn từ SMFM có liên quan đến tỷ lệ phát hiện SGA cao hơn nhưng độ đặc hiệu giảm. Dù định nghĩa FGR theo hướng dẫn nào đều cho thấy khả năng dự đoán bệnh suất tổng hợp ở trẻ sơ sinh đều kém.
Lược dịch từ: Roeckner, J. T., Pressman, K., Odibo, L., Duncan, J. R., & Odibo, A. O. (2021). An outcome‐based comparison of two international guidelines for defining fetal growth restriction. Ultrasound in Obstetrics & Gynecology.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tăng trưởng ở trẻ được sinh ra nhờ công nghệ hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 26-04-2021
Mối quan hệ giữa sự phân mảnh DNA ở tinh trùng và tỷ lệ thai sau bơm tinh trùng vào tử cung (IUI). Có nên hạ thấp ngưỡng DFI không? - Ngày đăng: 26-04-2021
Tóm tắt bằng chứng hiện có về những lợi ích và nguy cơ tiềm ẩn của tiêm vaccine COVID-19 trong thai kỳ - Ngày đăng: 26-04-2021
Mối tương quan giữa số lượng phôi nang chất lượng tốt và kết quả trẻ sinh sống sau chuyển đơn phôi nang ở các chu kỳ chuyển phôi tươi hoặc trữ ở chu kì đầu tiên - Ngày đăng: 26-04-2021
Sự thay đổi theo mùa về nhiệt độ, độ ẩm và độ dài ngày có ảnh hưởng đến các thông số tinh dịch - Một nghiên cứu phân tích hồi cứu hơn 8 năm - Ngày đăng: 26-04-2021
Đánh giá các giá trị của noãn tại ngày ICSI (D0) và kết quả của chu kì điều trị - Ngày đăng: 26-04-2021
So sánh hiệu quả giữa việc sử dụng cell-free dna trong môi trường nuôi cấy và sinh thiết tế bào lá nuôi trong xét nghiệm di truyền tiền làm tổ - Ngày đăng: 23-04-2021
Ảnh hưởng của tuổi mẹ và hình thái phôi đối với tỉ lệ trẻ sinh sống sau khi chuyển phôi giai đoạn phân chia - Ngày đăng: 23-04-2021
Xác định ảnh hưởng của chất lượng tinh trùng đến sự phát triển của phôi trên mô hình xin cho noãn - Ngày đăng: 23-04-2021
Khả năng áp dụng mô hình lựa chọn phôi sử dụng các thông số động học của time -lapse giữa các labo IVF: một phân tích cộng gộp-tổng quan hệ thống - Ngày đăng: 23-04-2021
Oxytocin liều cao không làm giảm tỷ lệ mổ lấy thai so với liều tiêu chuẩn - Ngày đăng: 23-04-2021
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, Chủ Nhật ngày 12 . 01 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK