Tin tức
on Wednesday 01-04-2020 3:43pm
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Huỳnh Trọng Kha – IVFMD Tân Bình
Suy buồng trứng sớm (Primary ovarian insufficiency - POI) là một trong những nguyên nhân gây vô sinh ở nữ, chiếm 1% dân số. Hiện nay, việc cấy ghép mô buồng trứng để khôi phục lại khả năng sinh sản và nội tiết đang đem lại hiệu quả cao trong điều trị POI. Tuy nhiên, việc cấy ghép mô buồng trứng truyền thống cho hiệu quả thấp đối với nhóm bệnh nhân này vì đa phần nang noãn còn lại là những nang không hoạt động. Năm 2010, các nhà nghiên cứu đã áp dụng hai nhóm enzyme là nhóm enzyme ức chế (Phosphatase và Tesin Homolog (PTEN)) và nhóm enzyme kích hoạt (phosphatidylinositol-3 kinase) để kích hoạt những nang noãn không hoạt động. Nghiên cứu của Zhai và cộng sự (2016), tác giả bước đầu ứng dụng phương pháp tái cấy ghép mô buồng trứng có kích hoạt nang noãn in vitro (In Vitro activation - IVA) để điều trị cho những bệnh nhân POI.
Nghiên cứu tiến hành từ 8/2014 đến 7/2015 trên 14 bệnh nhân POI với các tiêu chuẩn: dưới 40 tuổi, vô kinh ít nhất một năm, FSH>35 IU/l, nồng độ Estradiol dưới 20 pg/ml và tất cả các bệnh nhân này không đáp ứng với phác đồ kích thích nang noãn bằng gonadotropin. Bệnh nhân sau khi được nội soi cắt buồng trứng, tiến hành loại vùng tủy và thu vùng vỏ với kích thước 1x1 mm2. Cuối cùng, tiến hành IVA một số mảnh mô trong 2 ngày và cấy ghép những mảnh mô này vào lại bệnh nhân, những mảnh mô dư tiến hành trữ lạnh. Sau cấy ghép, cứ theo dõi hai tuần một lần qua siêu âm ngả âm đạo, độ dày nội mạc tử cung và xét nghiệm nội tiết (Gonadotropin, Estradiol).
Kết quả cho thấy sau một năm theo dõi, 6 trong số 14 bệnh nhân có xuất hiện 15 chu kỳ phát triển nang noãn và có nang đạt đến giai đoạn phóng noãn. Trong đó, có 4 bệnh nhân tiến hành IVF, phôi được chuyển vào ngày 2 và một số được trữ lạnh, kết quả một bé trai khỏe mạnh được sinh ra. Tuy nhiên, khi so sánh nồng độ AMH và FSH huyết thanh ở những bệnh nhân này thì không cho sự tương quan giữa trước và sau IVA, tái cấy ghép mô buồng trứng. Điều này có thể do nang noãn còn lại ở nhóm bệnh nhân này tương đối ít. Vì vậy, khó phản ánh sự khác biệt.
Nghiên cứu giúp chứng minh kĩ thuật IVA kích hoạt hiệu quả nang noãn còn lại ở những bệnh nhân POI và giúp họ khôi phục khả năng có con của chính mình cũng như duy trì sản sinh nội tiết. IVA là một phương pháp mới và đã đạt được những thành công ban đầu trong điều trị vô sinh cho bệnh nhân POI. Cần có nhiều cải tiến hơn nữa ở IVA để nó trở thành một liệu pháp tiềm năng cho bệnh nhân đáp ứng kém, bệnh nhân giảm dự trữ buồng trứng và những người đã điều trị hết bệnh ung thư.
Nguồn: Zhai, J., Yao, G., Dong, F., Bu, Z., Cheng, Y., Sato, Y., Hu, L., Zhang, Y., Wang, J., Dai, S., Li, J., Sun, J., Hsueh, A. J., Kawamura, K., & Sun, Y. (2016). In Vitro Activation of Follicles and Fresh Tissue Auto-transplantation in Primary Ovarian Insufficiency Patients. The Journal of clinical endocrinology and metabolism, 101(11), 4405–4412.
Nghiên cứu tiến hành từ 8/2014 đến 7/2015 trên 14 bệnh nhân POI với các tiêu chuẩn: dưới 40 tuổi, vô kinh ít nhất một năm, FSH>35 IU/l, nồng độ Estradiol dưới 20 pg/ml và tất cả các bệnh nhân này không đáp ứng với phác đồ kích thích nang noãn bằng gonadotropin. Bệnh nhân sau khi được nội soi cắt buồng trứng, tiến hành loại vùng tủy và thu vùng vỏ với kích thước 1x1 mm2. Cuối cùng, tiến hành IVA một số mảnh mô trong 2 ngày và cấy ghép những mảnh mô này vào lại bệnh nhân, những mảnh mô dư tiến hành trữ lạnh. Sau cấy ghép, cứ theo dõi hai tuần một lần qua siêu âm ngả âm đạo, độ dày nội mạc tử cung và xét nghiệm nội tiết (Gonadotropin, Estradiol).
Kết quả cho thấy sau một năm theo dõi, 6 trong số 14 bệnh nhân có xuất hiện 15 chu kỳ phát triển nang noãn và có nang đạt đến giai đoạn phóng noãn. Trong đó, có 4 bệnh nhân tiến hành IVF, phôi được chuyển vào ngày 2 và một số được trữ lạnh, kết quả một bé trai khỏe mạnh được sinh ra. Tuy nhiên, khi so sánh nồng độ AMH và FSH huyết thanh ở những bệnh nhân này thì không cho sự tương quan giữa trước và sau IVA, tái cấy ghép mô buồng trứng. Điều này có thể do nang noãn còn lại ở nhóm bệnh nhân này tương đối ít. Vì vậy, khó phản ánh sự khác biệt.
Nghiên cứu giúp chứng minh kĩ thuật IVA kích hoạt hiệu quả nang noãn còn lại ở những bệnh nhân POI và giúp họ khôi phục khả năng có con của chính mình cũng như duy trì sản sinh nội tiết. IVA là một phương pháp mới và đã đạt được những thành công ban đầu trong điều trị vô sinh cho bệnh nhân POI. Cần có nhiều cải tiến hơn nữa ở IVA để nó trở thành một liệu pháp tiềm năng cho bệnh nhân đáp ứng kém, bệnh nhân giảm dự trữ buồng trứng và những người đã điều trị hết bệnh ung thư.
Nguồn: Zhai, J., Yao, G., Dong, F., Bu, Z., Cheng, Y., Sato, Y., Hu, L., Zhang, Y., Wang, J., Dai, S., Li, J., Sun, J., Hsueh, A. J., Kawamura, K., & Sun, Y. (2016). In Vitro Activation of Follicles and Fresh Tissue Auto-transplantation in Primary Ovarian Insufficiency Patients. The Journal of clinical endocrinology and metabolism, 101(11), 4405–4412.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Độ dày của nội mạc tử cung có liên quan đến nguy cơ thai ngoài tử cung - Ngày đăng: 01-04-2020
Tầm ảnh hưởng của các đặc điểm tinh trùng đối với động học hình thái phôi và kết quả lâm sàng của IVF cổ điển - Ngày đăng: 23-03-2020
Tiên lượng khả năng làm tổ sau khi chuyển phôi nang trong IVF: bằng thuật toán machine-learning - Ngày đăng: 23-03-2020
Thử nghiệm đánh giá hình thái tinh trùng tự động bằng trí tuệ nhân tạo - Ngày đăng: 23-03-2020
Coronavirus và thai kỳ - tổng quan sơ lược - Ngày đăng: 23-03-2020
Quản lý thai phụ nhiễm covid – 19 - hướng dẫn tạm thời của isuog về nhiễm coronavirus trong thai kỳ và chu sinh dành cho nhân viên y tế - Ngày đăng: 23-03-2020
Tỷ lệ mang thai và sinh sống sau vi phẫu thuật nối ống dẫn tinh đối với những bệnh nhân vô sinh do tắc nghẽn mào tinh - Ngày đăng: 23-03-2020
Tác động của tuổi tác lên khả năng sinh sản - Ngày đăng: 23-03-2020
Biểu hiện ACE2 trong tế bào Sertoli và tế bào mầm có thể gây ra rối loạn sinh sản nam sau khi nhiễm SARS-CoV-2 - Ngày đăng: 23-03-2020
Hệ vi sinh vật phức tạp từ tinh dịch tự nhiên đến môi trường nuôi cấy phôi trong quy trình thụ tinh trong ống nghiệm ở người - Ngày đăng: 23-03-2020
Tỉ lệ thai và sinh sống giảm ở những bệnh nhân thực hiện IVF có tiền sử sinh mổ: một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu - Ngày đăng: 23-03-2020
Tuổi tác và động học phôi - Ngày đăng: 23-03-2020
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Indochine Palace, TP Huế, chiều thứ sáu 9.8.2024 (14:20 - 17:30)
Năm 2020
Ngày 9-10 . 8 . 2024, Indochine Palace, Huế
Năm 2020
New World Saigon Hotel (Số 76 Lê Lai, Phường Bến Nghé, Quận 1, ...
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Kính mời tác giả gửi bài cộng tác trước 15.12.2024
Sách ra mắt ngày 15 . 5 . 2024 và gửi đến quý hội viên trước ...
Sách dự kiến phát hành đầu tháng 6.2024
FACEBOOK