Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Wednesday 12-02-2020 10:29am
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế

CVPH. Nguyễn Cao Trí – IVF Vạn Hạnh

Anti-Müllerian hormone (AMH) là một dimeric glycoprotein thuộc họ transforming growth factor β được biết đến lần đầu vào năm 1950 với vai trò phân biệt giới tính ở nam. Các nghiên cứu sau đó mô tả giá trị AMH tỉ lệ với số lượng nang phát triển ở buồng trứng và là một marker dự đoán khả năng đáp ứng của buồng trứng khi kích thích buồng trứng thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Tuy nhiên, các nghiên cứu cũng cho thấy sự hạn chế của AMH khi sử dụng dự đoán kết quả thai sau khi IVF. Dù những kết quả không thực sự thuận lợi, các nghiên cứu về vai trò của AMH vẫn được tiếp tục thực hiện, đặc biệt là AMH ở dịch nang của nang noãn khi chọc hút noãn. Các nghiên cứu về AMH ở dịch nang cũng tập trung phân tích về mối liên hệ giữa nồng độ AMH với chất lượng noãn, phôi hay kết quả điều trị IVF, tuy nhiên, kết quả giữa các công bố vẫn tồn tại nhiều điểm chưa đồng nhất. Các hạn chế trong các nghiên cứu trước đây bao gồm: Phương pháp định lượng AMH không đồng nhất, chưa tách riêng được dịch nang của từng noãn để đánh giá và được thực hiện trên số lượng mẫu ít. Để làm rõ hơn về mối liên hệ giữa AMH và kết quả điều trị IVF một cách có hệ thống, nhóm tác giả tiến hành thực hiện nghiên cứu tiến cứu với các thông số kỹ thuật được thiết lập chặt chẽ và trên cỡ mẫu lớn [1].

Nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu phân tích trên 322 mẫu dịch nang (follicular fluid, FF) riêng lẻ từ 199 phụ nữ điều trị hiếm muộn bằng kỹ thuật ICSI và chuyển đơn phôi (SET) trong 18 tháng. Trong số những người tham gia, 76 người cung cấp một mẫu FF duy nhất, 123 phụ nữ đóng góp hai mẫu FF được lấy từ hai nang khác nhau. Chọc hút noãn đầu tiên ở mỗi buồng trứng vào ngày chọc hút sẽ thu được FF tương ứng, sau đó FF sẽ được lưu trữ ở −80◦C. Phức hợp cumulus-oocyte (COC) cũng được theo dõi riêng để so sánh các kết quả sau này. Giá trị AMH, FSH, LH, testosterone (T) và androstenedione (A2) của FF được đo bằng phép đo phổ khối (androgen) và xét nghiệm miễn dịch.

Trong số 322 mẫu noãn-FF, có 70 (21,7%) noãn không thụ tinh. Từ các phôi 2PN còn lại (252), 88 phôi (34,9%) được chuyển phôi đơn vào ngày 3; trong số 164 phôi còn lại, 78 phôi đã phát triển thành phôi nang và 18 lần chuyển đơn phôi nang được thực hiện. Như vậy, tổng cộng 106 phôi được chuyển có mẫu FF tương ứng được phân tích. Kết quả về nồng độ FF tương ứng với noãn cho thấy nồng độ AMH cao hơn trong các nang có noãn phát triển thành phôi nang có chất lượng tốt (TQ) (6,33 ± 5,52 ng/ml) và noãn tạo phôi chuyển có trẻ sinh sống (7,49 ± 5,03 ng/ml) so với noãn thất bại thụ tinh (3,34 ± 2,21 ng/ml). Ngược lại, nồng độ FSH của nang noãn thấp hơn với noãn phát triển lên phôi nang chất lượng tốt (5,36 ± 2,20 mIU/ml) và noãn tạo phôi chuyển có trẻ sinh sống (5,60 ± 1,41 mIU/ml) so với noãn không thụ tinh (9.06 ± 3.36 mIU/ml). FF AMH là marker duy nhất được nghiên cứu làm tăng tỉ lệ trẻ sinh sống (odd ratio: 1,93 [95% CI: 1,40-2,67], P <0,001). Đường cong ROC (Receiver Operating Characteristic), cho thấy mức FF AMH dự đoán trẻ sinh sống với độ nhạy rất cao (91,2%), độ đặc hiệu (91,7%) và giá trị AUC là 0,954, trong khi mức AMH huyết thanh chỉ có ý nghĩa AUC = 0,711, và được xem như một công cụ dự đoán trẻ sinh sống sau ICSI/SET. Khả năng dự đoán của các marker không chỉ giới hạn ở phôi chất lượng tốt mà áp dụng cho tất cả các chu kỳ SET.

Kết quả trên cho thấy các noãn có độ hoàn thiện hay chất lượng tốt ở người có thành phần FF tương ứng gồm AMH, FSH, T và A2 gần giống với các noãn ở chu kỳ tự nhiên. Ngoài ra, mối quan hệ giữa nồng độ AMH, gonadotropin và androgen nội bào trong cùng một nang noãn hỗ trợ cho giả thuyết rằng nồng độ FF AMH có thể phản ánh sự tăng sinh tế bào granulosa trong quá trình gonadotropin kích thích nang noãn tăng trưởng. Cuối cùng, nồng độ AMH huyết thanh thấp hơn rõ rệt so với nồng độ FF AMH cùng với mối tương quan vừa phải giữa AMH huyết thanh và FF AMH, có thể nói nang noãn có sự tự chủ nhất định với các sản phẩm tiết của nó.

Tài liệu tham khảo:
P. Ciepiela, A.J. Dulȩba, A. Kario, K. Chełstowski, D. Branecka-Woźniak, R. Kurzawa, Oocyte matched follicular fluid anti-Müllerian hormone is an excellent predictor of live birth after fresh single embryo transfer, Hum. Reprod. (2019).
 

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Indochine Palace, TP Huế, chiều thứ sáu 9.8.2024 (14:20 - 17:30)

Năm 2020

Ngày 9-10 . 8 . 2024, Indochine Palace, Huế

Năm 2020

New World Saigon Hotel (Số 76 Lê Lai, Phường Bến Nghé, Quận 1, ...

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời tác giả gửi bài cộng tác trước 15.12.2024

Sách ra mắt ngày 15 . 5 . 2024 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK