Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Friday 17-01-2020 3:46pm
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế
 
CVPH. Lê Thị Bích Phượng - IVFMD Phú Nhuận

Mục tiêu cuối cùng trong điều trị IVF là có một em bé khoẻ mạnh mang về nhà. Vào năm 2009, chỉ có khoảng 19% chu kỳ chuyển phôi thành công và có em bé sinh ra. Để cải thiện tỉ lệ này, nhiều trung tâm IVF thực hiện chuyển nhiều hơn 1 phôi ngày 3. Tuy nhiên điều này có thể làm tăng tỉ lệ đa thai cũng như tăng nguy cơ gặp một số biến chứng cho mẹ và trẻ như tăng huyết áp, sinh non, trẻ nhẹ cân… Do đó, giảm số lượng phôi chuyển nhờ lựa chọn được phôi có tiềm năng tốt nhất là cần thiết.



Chuyển đơn phôi lựa chọn là phương pháp hiệu quả giúp giảm nguy cơ đa thai, đã có nhiều bằng chứng cho thấy chuyển đơn phôi nang có nhiều ưu điểm hơn so với chuyển đơn phôi giai đoạn phân chia. Mặc dù đã có nhiều công cụ giúp lựa chọn phôi chuyển tiềm năng nhưng đánh giá chất lượng phôi dựa trên quan sát hình thái là phương pháp được sử dụng phổ biến nhất hiện nay. Tuy nhiên trong thực hành lâm sàng, thường có những trường hợp một bệnh nhân có nhiều phôi cùng chất lượng hình thái, điều này dẫn đến câu hỏi liệu rằng phôi nang nào là tối ưu nhất để chuyển cho bệnh nhân và liệu rằng số lượng phôi bào ở giai đoạn phôi phân chia có dự đoán được tiềm năng của phôi nang hay không. Vì vậy mà Haibin Zhao và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu này nhằm trả lời cho câu hỏi trên.

Nghiên cứu hồi cứu thực hiện từ tháng 01/2015 đến tháng 10/2017 trên 1444 chu kỳ chuyển phôi nang. Nghiên cứu so sánh kết quả trên 5 nhóm có số lượng phôi bào khác nhau lần lượt là ≤ 6 phôi bào (nhóm 1), 7 phôi bào (nhóm 2), 8 phôi bào (nhóm 3), 9 phôi bào (nhóm 4) và ≥ 10 phôi bào (nhóm 5). Kết quả nghiên cứu cho thấy:

Không có sự khác biệt về tỉ lệ thai lâm sàng ở nhóm 1 và nhóm 3 (55,05% với 64,61%, p= 0,06). Tuy nhiên tỉ lệ sinh sống ở nhóm 1 thấp hơn đáng kể so với nhóm 3 (41,28% với 55,73%, p = 0,004) và tỉ lệ sẩy thai ở nhóm 1 cao gần gấp đôi nhóm 3 (25% vs 13,74%, p = 0,02). Những tỉ lệ này không có sự khác biệt so với những nhóm còn lại. So sánh về kết quả sinh, trẻ sinh ra ở nhóm 3 có cân nặng trung bình thấp hơn nhóm 5 (3,4 kg ± 0,54 với 3,52 kg ± 0,49, P = 0,03) và tỉ lệ trẻ sơ sinh ≤ 2500 gr ở nhóm 3 cao hơn đáng kể so với nhóm 5 (5,29% vs 0,86%, P = 0,04). Nghiên cứu thêm về kết cục điều trị từ những phôi nang chất lượng tốt phát triển từ nhóm phôi ngày 3 có ≤ 6 phôi bào với phôi nang phát triển từ phôi 8 tế bào, kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ sinh sống ở nhóm phôi nang chất lượng tốt phát triển từ phôi 6 tế bào cao hơn khi chuyển phôi nang chất lượng kém phát triển từ phôi 8 tế bào (61,76% với 44,44%, P = 0.04).

Như vậy, nghiên cứu này cho thấy rằng số lượng phôi bào ở giai đoạn phôi ngày 3 có mối tương quan với kết cục điều trị cũng như kết cục sinh của bệnh nhân. Do đó, nghiên cứu khuyến khích nên đánh giá thêm số lượng phôi bào ở giai đoạn phôi ngày 3 khi lựa chọn phôi nang để có kết cục điều trị tốt nhất cho bệnh nhân.

Nguồn: Clinical outcomes following frozen-thawed blastocyst transfers with blastocysts derived from different cell numbers on day 3: a retrospective cohort study. 10.1007/s10815-019-01664-x. Journal of Assisted Reproduction and Genetics 2020.
 
Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Indochine Palace, TP Huế, chiều thứ sáu 9.8.2024 (14:20 - 17:30)

Năm 2020

Ngày 9-10 . 8 . 2024, Indochine Palace, Huế

Năm 2020

New World Saigon Hotel (Số 76 Lê Lai, Phường Bến Nghé, Quận 1, ...

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời tác giả gửi bài cộng tác trước 15.12.2024

Sách ra mắt ngày 15 . 5 . 2024 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK