Tin tức
on Thursday 16-01-2020 4:04pm
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Nguyễn Hữu Duy – IVF Vạn Hạnh
Việc xét nghiệm di truyền tiền làm tổ chẩn đoán phôi lệch bội (PGT-A) và loại bỏ các phôi bị lệch bội giúp cải thiện kết quả chuyển phôi. Mặc dù đã có những cải tiến quan trọng trong labo IVF, chuyển phôi vẫn là bước cuối cùng và quan trọng nhất trong các chu kỳ IVF. Bất kỳ khó khăn nào trong quy trình chuyển phôi đều phải được lưu ý vì ngay cả phôi tốt nhất cũng có thể bị lãng phí nếu kỹ thuật chuyển phôi không tối ưu. Hơn nữa, kỹ thuật chuyển phôi kém có liên quan đến 30% thất bại ở các chu kỳ IVF.
Việc chuyển phôi nguyên bội giúp hạn chế nguy cơ sẩy thai và thất bại làm tổ của phôi, cũng như cung cấp cơ hội để phân tích những ca chuyển phôi khó và các thao tác hỗ trợ. Tuy nhiên hiện tại có rất ít dữ liệu về mối quan hệ giữa tỷ lệ trẻ sinh sống (LBR - live birth rate) và các ca chuyển phôi khó trong trường hợp chuyển phôi nguyên bội. Do đó, Alvarez cộng sự (2019) đã tiến hành nghiên cứu với mục tiêu thiết lập mối quan hệ giữa LBR và các thao tác hoặc mức độ khó khác nhau trong quá trình chuyển phôi nang nguyên bội rã đông (frozen euploid (blastocyst) embryo transfer - FEET) ở các chu kỳ IVF có làm PGT-A.
Đây là một nghiên cứu quan sát hồi cứu ở những phụ nữ được thực hiện FEET. Nếu ống chuyển phôi (catheter) gặp bất kỳ cản trở nào khi đi qua cổ tử cung, phương pháp tiếp cận từng bước sẽ được sử dụng. Chuyển phôi dễ được định nghĩa là chuyển phôi thông suốt hoặc sử dụng nòng ngoài của catheter. Việc chuyển phôi khó được định nghĩa là khi quá trình này yêu cầu sử dụng một catheter uốn cong được là Wallace Mallizable Stylet (Smiths Medical International Ltd., UK) mà không có hoặc có sử dụng thêm dụng cụ hỗ trợ như kẹp phẫu thuật.
Nghiên cứu bao gồm 370 ca FEET. Kết quả nghiên cứu cho thấy LBR thấp hơn đáng kể trong các quy trình FEET khó so với các quy trình dễ (40,5% so với 54,5%, P = 0,026) nhưng sự khác biệt không còn sau khi điều chỉnh các yếu tố gây nhiễu. Việc sử dụng nòng ngoài catheter không ảnh hưởng đến LBR. Mặc dù LBR thấp hơn đáng kể khi sử dụng Wallace Mallizable Stylet (có hoặc không có kẹp phẫu thuật) ([OR] 0,56, khoảng tin cậy 95%: 0,34-0,93; P <0,05), nhưng sự giảm sút này không còn ý nghĩa thống kê sau khi điều chỉnh các yếu tố gây nhiễu (OR 0,81, KTC 95% 0,45-1,47).
Như vậy nghiên cứu này cho thấy không có sự giảm đáng kể nào về LBR được quan sát thấy sau khi điều chỉnh các yếu tố gây nhiễu giữa FEET khó và dễ, hoặc khi sử dụng Stylet mà không có hoặc có dùng thêm kẹp phẫu thuật để chuyển phôi. Việc khác biệt không có ý nghĩa thống kê về LBR có thể là do các yếu tố như cỡ mẫu hoặc do sử dụng aCGH trong phân tích phôi lệch bội. Do vậy, cần có thêm các nghiên cứu khác để xác nhận những kết quả này.
Nguồn: Effect of embryo transfer difficulty on live birth rates studied in vitrified–warmed euploid blastocyst transfers. Alvarez, Manuel et al. Reproductive BioMedicine Online 2019, Volume 39, Issue 6, 940 – 946.
Việc chuyển phôi nguyên bội giúp hạn chế nguy cơ sẩy thai và thất bại làm tổ của phôi, cũng như cung cấp cơ hội để phân tích những ca chuyển phôi khó và các thao tác hỗ trợ. Tuy nhiên hiện tại có rất ít dữ liệu về mối quan hệ giữa tỷ lệ trẻ sinh sống (LBR - live birth rate) và các ca chuyển phôi khó trong trường hợp chuyển phôi nguyên bội. Do đó, Alvarez cộng sự (2019) đã tiến hành nghiên cứu với mục tiêu thiết lập mối quan hệ giữa LBR và các thao tác hoặc mức độ khó khác nhau trong quá trình chuyển phôi nang nguyên bội rã đông (frozen euploid (blastocyst) embryo transfer - FEET) ở các chu kỳ IVF có làm PGT-A.
Đây là một nghiên cứu quan sát hồi cứu ở những phụ nữ được thực hiện FEET. Nếu ống chuyển phôi (catheter) gặp bất kỳ cản trở nào khi đi qua cổ tử cung, phương pháp tiếp cận từng bước sẽ được sử dụng. Chuyển phôi dễ được định nghĩa là chuyển phôi thông suốt hoặc sử dụng nòng ngoài của catheter. Việc chuyển phôi khó được định nghĩa là khi quá trình này yêu cầu sử dụng một catheter uốn cong được là Wallace Mallizable Stylet (Smiths Medical International Ltd., UK) mà không có hoặc có sử dụng thêm dụng cụ hỗ trợ như kẹp phẫu thuật.
Nghiên cứu bao gồm 370 ca FEET. Kết quả nghiên cứu cho thấy LBR thấp hơn đáng kể trong các quy trình FEET khó so với các quy trình dễ (40,5% so với 54,5%, P = 0,026) nhưng sự khác biệt không còn sau khi điều chỉnh các yếu tố gây nhiễu. Việc sử dụng nòng ngoài catheter không ảnh hưởng đến LBR. Mặc dù LBR thấp hơn đáng kể khi sử dụng Wallace Mallizable Stylet (có hoặc không có kẹp phẫu thuật) ([OR] 0,56, khoảng tin cậy 95%: 0,34-0,93; P <0,05), nhưng sự giảm sút này không còn ý nghĩa thống kê sau khi điều chỉnh các yếu tố gây nhiễu (OR 0,81, KTC 95% 0,45-1,47).
Như vậy nghiên cứu này cho thấy không có sự giảm đáng kể nào về LBR được quan sát thấy sau khi điều chỉnh các yếu tố gây nhiễu giữa FEET khó và dễ, hoặc khi sử dụng Stylet mà không có hoặc có dùng thêm kẹp phẫu thuật để chuyển phôi. Việc khác biệt không có ý nghĩa thống kê về LBR có thể là do các yếu tố như cỡ mẫu hoặc do sử dụng aCGH trong phân tích phôi lệch bội. Do vậy, cần có thêm các nghiên cứu khác để xác nhận những kết quả này.
Nguồn: Effect of embryo transfer difficulty on live birth rates studied in vitrified–warmed euploid blastocyst transfers. Alvarez, Manuel et al. Reproductive BioMedicine Online 2019, Volume 39, Issue 6, 940 – 946.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Xét nghiệm di truyền tiền làm tổ thế hệ thứ hai để phát hiện lệch bội trong hỗ trợ sinh sản: phân tích SWOT - Ngày đăng: 14-01-2020
Thất bại trong thu nhận tinh trùng và đông lạnh noãn - Ngày đăng: 14-01-2020
Cảm ứng Stress oxy hóa dưới ngưỡng đối với tinh trùng trước khi đông lạnh - Ngày đăng: 14-01-2020
Xét nghiệm di truyền lệch bội phôi tiền làm tổ (PGT-A) so với hình thái phôi trong việc lựa chọn chuyển một phôi trữ ở bệnh nhân tiên lượng tốt: một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên đa trung tâm - Ngày đăng: 14-01-2020
Môi trường và mối liên quan đến các kết cục sản khoa - Ngày đăng: 17-01-2020
Đột biến gen mã hoá protein STAG3 (Stromal antigen 3) gây vô sinh nam do ngừng giảm phân - Ngày đăng: 17-01-2020
Ảnh hưởng liên nhiễm sắc thể (Interchromosomal effect-ICE) ở những người mang chuyển đoạn và đảo đoạn được đánh giá bằng PGT-SR - Ngày đăng: 30-12-2019
Các yếu tố từ nam giới và tình trạng bội thể của phôi - Ngày đăng: 30-12-2019
So sánh kết quả giữa chuyển phôi giai đoạn phân cắt so với phôi nang trong chu kỳ xin noãn - Ngày đăng: 30-12-2019
Piezo - ICSI cải thiện kết quả thụ tinh và tỷ lệ hình thành phôi nang so với ICSI thông thường ở phụ nữ trên 35 tuổi - Ngày đăng: 30-12-2019
Sự phát triển nhận thức và cảm xúc xã hội ở trẻ 5 tuổi sinh ra sau PGD - Ngày đăng: 27-12-2019
Nhiều hơn thì tốt hơn : AMH và chất lượng phôi nang - Ngày đăng: 27-12-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Indochine Palace, TP Huế, chiều thứ sáu 9.8.2024 (14:20 - 17:30)
Năm 2020
Ngày 9-10 . 8 . 2024, Indochine Palace, Huế
Năm 2020
New World Saigon Hotel (Số 76 Lê Lai, Phường Bến Nghé, Quận 1, ...
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Kính mời tác giả gửi bài cộng tác trước 15.12.2024
Sách ra mắt ngày 15 . 5 . 2024 và gửi đến quý hội viên trước ...
Sách dự kiến phát hành đầu tháng 6.2024
FACEBOOK