Tin tức
on Monday 30-09-2019 9:20am
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Trịnh Thị Thùy Trang - IVFVH
Nhiễm human papillomavirus (HPV) là một trong những bệnh nhiễm virus phổ biến nhất trên toàn thế giới. Mặc dù HPV chủ yếu liên quan đến ung thư, nhưng các nghiên cứu gần đây đã xác định nhiễm HPV có thể là nguyên nhân gây vô sinh ở nam giới và các cặp vợ chồng hiếm muộn. Các xét nghiệm DNA HPV đặc hiệu có thể phân loại nhiễm HPV theo hai con đường: virus HPV ngoại tế bào (virion) lây nhiễm và con đường gây ung thư biến đổi không lây nhiễm.
Nhiễm HPV gây ra tác động tiêu cực đến khả năng sinh sản vì các virion làm bất động tinh trùng, làm hỏng DNA tinh trùng và ngưng sự phát triển của phôi ở giai đoạn 2 tế bào sớm. Các thí nghiệm in vitro đã chứng minh rằng, HPV virion có thể lây nhiễm từ tinh trùng sang noãn, khiến giao tử bị nhiễm không thể hoàn thiện quá trình phát triển phôi.
Trong phương pháp bơm tinh trùng vào buồng tử cung (intrauterine insemination - IUI), mẫu tinh dịch được thu nhận và tiến hành lọc rửa bằng những phương pháp như gradient tỷ trọng (lấy phần cặn sau ly tâm) hay swim-up (lấy phần dịch nổi) để chọn lọc ra những tinh trùng trưởng thành có khả năng thụ tinh. Xác định DNA HPV trong tinh trùng dựa vào virion, các virion này được giải phóng khỏi các tế bào biểu mô vảy bị nhiễm bệnh, trôi nổi tự do hoặc được gắn vào tinh trùng. Do đó cần xét nghiệm từng thành phần của mẫu sau khi tiến hành lọc rửa (tinh dịch, lớp cặn sau swim-up, dịch rửa tinh trùng, phần dịch trên và dưới của phương pháp gradient) và phân tích tác động của các virion HPV này trên kết quả sinh sản (tỷ lệ thai sinh hóa và lâm sàng).
Bằng cách sử dụng các xét nghiệm PCR định lượng đặc hiệu theo loại, kết quả cho thấy rằng khi có hơn 66 virion HPV trên 100 tinh trùng trong mẫu tinh trùng ban đầu, không có trường hợp nào có thai. Được biết, các kỹ thuật lọc rửa thông thường không loại bỏ DNA HPV ra khỏi tinh trùng, có sự liên kết rất mạnh của virion với một thụ thể trên bề mặt tế bào tinh trùng hoặc thậm chí virion có thể xâm nhập vào tế bào tinh trùng.
Kết quả của bài nghiên cứu này cho thấy tỷ lệ nhiễm HPV và tuýp HPV nguy cơ cao ở tinh trùng người chồng trong chu kỳ IUI lần lượt là 17,9% và 14,9%. Tỷ lệ nhiễm HPV và tuýp HPV nguy cơ cao trong tinh trùng của người cho trong mỗi chu kỳ IUI lần lượt là 2,7% và 2,5%.
Phụ nữ trải qua chu kỳ IUI với những mẫu tinh trùng nhiễm HPV có khả năng có thai thấp hơn 4 lần và tỷ lệ thai lâm sàng thấp hơn đáng kể (2,9%/chu kỳ) so với phụ nữ có mẫu tinh trùng người chồng âm tính với HPV (11,1%/chu kỳ; P=.0016).
Trong nghiên cứu này, chỉ có năm trường hợp thai sinh hóa được ghi nhận trong nhóm có tinh trùng dương tính với HPV (2,9%), thấp hơn so với nhóm có tinh trùng âm tính với HPV (3,9%). Điều này phù hợp với kết quả từ một phân tích tổng hợp gần đây cho thấy không có mối liên quan đáng kể nào giữa nhiễm HPV và sẩy thai tự nhiên.
Từ kết quả, nhóm tác giả nhận định phơi nhiễm HPV trong tinh dịch ảnh hưởng đến kết quả thai sau IUI. Như vậy, trước khi thực hiện thụ tinh, cần xét nghiệm kiểm tra sự phơi nhiễm HPV mặc dù trên thực tế khi nhiễm một số loại HPV thì khả năng có thai lâm sàng vẫn có thể xảy ra. Ngoài ra trong một số nghiên cứu, kết quả sinh sản đã được cải thiện khi tiêm vắc-xin HPV dự phòng cho người chồng có tinh trùng nhiễm HPV của những cặp vợ chồng vô sinh.
Nguồn: Infectious human papillomavirus virions in semen reduce clinical pregnancy rates in women undergoing intrauterine insemination. Fertility and Sterility. DOI: https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2019.02.002
Các tin khác cùng chuyên mục:
Số lượng noãn chọc hút trong một chu kỳ IVF: Sự cân bằng giữa hiệu quả điều trị và sự an toàn của bệnh nhân - Ngày đăng: 27-09-2019
Dấu hiệu mới trong siêu âm chẩn đoán nhau cài răng lược - Ngày đăng: 27-09-2019
Kết quả chu sinh của trẻ sinh đơn từ phôi trữ lạnh bằng phương pháp thủy tinh hóa so với đông lạnh chậm: Một nghiên cứu đoàn hệ đa trung tâm sử dụng phân tích điểm số xu hướng - Ngày đăng: 27-09-2019
Mức độ methyl hoá DNA và sự biểu hiện của mRNA của gen in dấu ở phôi nang từ IVM ở bệnh nhân buồng trứng đa nang - Ngày đăng: 21-09-2019
Các cặp vợ chồng vô sinh không rõ nguyên nhân nào nên được thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm? - Ngày đăng: 25-09-2019
Các phôi phát triển từ hợp tử 0PN và 1PN có tỷ lệ nguyên bội tương đương các phôi phát triển từ 2PN và nên được xem xét sử dụng cho chuyển phôi - Ngày đăng: 25-09-2019
Ảnh hưởng của thể tích dịch nang với tính đàn hồi của màng bào tương noãn người metaphase II ở phác đồ GnRH agonist trong chu kỳ ICSI - Ngày đăng: 25-09-2019
So sánh phương pháp microfluid và li tâm đẳng tỉ trọng trong chuẩn bị tinh trùng cho IUI - Ngày đăng: 25-09-2019
Yếu tố ức chế ung thư máu trong huyết thanh và dịch nang noãn của phụ nữ bị hội chứng buồng trứng đa nang và mối tương quan của nó với kết cục IVF - Ngày đăng: 25-09-2019
Tăng tỷ lệ biến chứng sản khoa và chu sinh trong thai kỳ ở chu kỳ xin cho noãn và chuyển đơn phôi ở phụ nữ trẻ và khỏe mạnh: Một nghiên cứu đoàn hệ bắt cặp tiến cứu - Ngày đăng: 25-09-2019
Lựa chọn tinh trùng có khả năng gắn với Hyaluronan cho ICSI không giúp cải thiện tỷ lệ sinh sống - Ngày đăng: 06-11-2019
Sàng lọc và xử trí cường kinh ở trẻ vị thành niên - Ngày đăng: 23-09-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK