Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Monday 09-09-2019 6:26pm
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế

Kể từ báo cáo lần đầu tiên của Stigliani và cộng sự (2013) về sự hiện diện của DNA ti thể và nhân trong môi trường đã qua nuôi cấy phôi (spent medium – SM), SM đã được khai thác triệt để với mục đích cuối cùng là phát triển phương pháp chẩn đoán di truyền tiền làm tổ không xâm lấn (NI PGT). Hiện nay, mặc dù NI PGT-A đã được ứng dụng trong lâm sàng lần đầu tiên từ năm 2016 bởi Xu và cộng sự, hiệu quả của phương pháp này đối với các lợi ích về mặt lâm sàng vẫn còn nhiều tranh cãi vì có những báo cáo mâu thuẫn về tỷ lệ thành công cũng như lo ngại về việc nhiễm DNA ngoài phôi.



Có hai yếu tố chính quyết định sự thành công của xét nghiệm NI PGT đó là thông số phôi của điều kiện nuôi cấy và phương pháp được sử dụng để phân tích dữ liệu từ mẫu SM. Hầu hết các nghiên cứu về NI PGT cho đến nay đều sử dụng các mẫu SM có nguồn gốc từ chỉ một trung tâm IVF do đó giữa các nghiên cứu có sự khác biệt về việc lựa chọn môi trường nuôi cấy, thể tích nuôi cấy, kiểu nuôi cấy (tươi, trữ - rã) và thời gian thu mẫu (ngày 3 – ngày 5/6 hoặc ngày 4 – ngày 5/6). Những yếu tố này sẽ góp phần vào sự khác biệt về tỷ lệ thành công đạt được bởi các nghiên cứu khác nhau (Shamonki và cộng sự, 2016; Xu và cộng sự, 2016; Feichtinger và cộng sự, 2017; Lane và cộng sự, 2017; Kuznyetsov và cộng sự 2017). Do đó, càng cần phải phát triển một phương pháp NI PGT mạnh và linh hoạt, phù hợp với nhiều thông số nuôi cấy phôi khác nhau.

Lựa chọn phương pháp khuếch đại bộ gen (WGA) phù hợp là một yếu tố quan trọng khác có thể ảnh hưởng đến sự thành công của xét nghiệm NI PGT. Vì DNA phôi trong SM có thể bị phân mảnh, độ dài DNA ngắn hơn vì vậy sẽ tạo ra thách thức đối với các phương pháp WGA nhất định (Wang và cộng sự, 2004). Thêm vào đó một số thành phần nhất định của môi trường nuôi cấy phôi có thể cản trở sự hoạt động của bộ đệm và / hoặc enzyme của hệ thống WGA, do đó làm cho phản ứng khuếch đại bộ gen trở nên không tối ưu hoặc không thực hiện được. Các bộ kit thương mại sử dụng để khuếch đại bộ gen thu được từ mẫu SM là Sureplex, MDA và MDA cải tiến (phù hợp với DNA bị phân mảnh) đã được so sánh về độ hiệu quả. Kết quả cho thấy tốc độ khuếch đại DNA cao hơn đáng kể ở các mẫu được thực hiện bằng MDA cải tiến so với Sureplex và MDA.

Nguồn gốc của DNA có trong SM có thể trở thành một yếu tố gây nhiễu cho kết quả NI PGT. Vấn đề về nhiễm khuẩn cũng đã được báo cáo xảy ra với tần suất < 1% trong môi trường nuôi cấy IVF thông thường, nhưng thú vị là không có trường hợp nào trong nuôi cấy phôi khi ICSI (Kastrop và cộng sự, 2007). Gần đây, Vera-Rodriguez và cộng sự (2018) đã báo cáo các mẫu SM bị nhiễm DNA của mẹ rất cao và chỉ khoảng 8% DNA trong đó có nguồn gốc từ phôi. Tuy nhiên, với điều kiện nuôi cấy và phương pháp khuếch đại thích hợp, đã có nhiều nghiên cứu (Xu và cộng sự, 2016; Kuznyetsov và cộng sự 2017; Lane và cộng sự, 2017) thu được kết quả khả quan đạt mức độ tương đương khoảng 72% - 95% so với kết quả sinh thiết mẫu tế bào TE tương ứng. Điều này chứng tỏ rằng tỷ lệ nhiễm trong mẫu là không đáng kể và sẽ không ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng. Tuy nhiên vẫn phải nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nuôi cấy phôi theo đúng qui trình cũng như các bước xử lý mẫu SM thích hợp mới đảm bảo cho sự thành công của kỹ thuật NI PGT-A.

Tóm lại, mặc dù một vài nghiên cứu lâm sàng với NI PGT-A đã được thực hiện khoảng hai năm qua, nhưng nhiều câu hỏi quan trọng liên quan đến hiệu quả lâm sàng của NI PGT-A vẫn chưa được trả lời. Tuy nhiên, dường như chúng ta đang tiến một bước gần hơn đến giấc mơ về một phương pháp hoàn toàn không xâm lấn để chẩn đoán di truyền phôi tiền làm tổ.

 CVPH. Hồ Thị Mỹ Trang - IVFMDPN

Nguồn: Babariya, Dhruti. "Non-invasive preimplantation genetic testing for aneuploidy (NI PGT-A)." Reproductive BioMedicine Online 38 (2019): e10-e11.


Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK