Tin tức
on Monday 09-09-2019 6:23pm
Danh mục: Tin quốc tế
Lựa chọn tinh trùng là một trong những bước quan trọng trong kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương noãn. Việc lựa chọn được tinh trùng trưởng thành, DNA nguyên vẹn và không chết theo chương trình (non-apoptotic – NA) góp phần vào thành công của kỹ thuật này. Phân lập tinh trùng NA bằng phương pháp hoạt hóa từ tính (MACS) giúp giảm được những tinh trùng phân mảnh DNA. Một số báo cáo cho rằng MACS giúp tăng hiệu quả của phản ứng cực đầu, tăng tỷ lệ thai và làm tổ cũng như giảm tỷ lệ sẩy thai, tuy nhiên một số báo cáo khác thì cho kết quả ngược lại.
Tác giả Martin và cộng sự tiến hành nghiên cứu trên 26 cặp vợ chồng được điều trị bằng ICSI, vợ có tiên lượng tốt và chồng vô sinh do bất thường về hình dạng tinh trùng. Noãn sau khi chọc hút được chia đôi để thực hiện ICSI theo hai nhóm: ICSI với tinh trùng được lọc rửa bình thường và ICSI với tinh trùng NA được chọn lọc bằng MACS. Hình dạng tinh trùng, tỷ lệ tạo phôi, tỷ lệ thai được ghi nhận và so sánh giữa hai nhóm.
Kết quả cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ tinh trùng bình thường, tỷ lệ tạo phôi cũng như tỷ lệ thai giữa hai nhóm ICSI và ICSI-MACS. Tuy nhiên, ở nhóm tuổi trên 30 tuổi, tỷ lệ tạo phôi nang chất lượng tốt của nhóm ICSI-MACS cao hơn đáng kể so với nhóm ICSI bình thường (75,0% so với 33,3%; P = 0,028). Tinh trùng sau khi chuẩn bị bằng MACS có tỷ lệ bất thường đuôi và cổ cao hơn nhóm chuẩn bị tinh trùng bình thường nhưng không đáng kể.
Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đề nghị rằng nên sử dụng MACS để lựa chọn tinh trùng cho ICSI ở những trường hợp chồng có tinh trùng dị dạng và tuổi vợ trên 30 tuổi. Tuy nhiên, cần có nhiều nghiên cứu hơn nữa để khẳng định vai trò của phương pháp MACS.
CVPH. Nguyễn Thị Thu Thảo - IVFMD Phú Nhuận
Nguồn: Martin Stimpfel (2018), Magnetic-activated cell sorting of non-apoptotic spermatozoa improves the quality of embryos according to female age: a prospective sibling oocyte study, Journal of Assisted Reproduction and Genetics. https://doi.org/10.1007/s10815-018-1242-1.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Chuyển một phôi nang trữ giúp cải thiện tỷ lệ trẻ sinh sống - Ngày đăng: 09-09-2019
Sự biến động của nồng độ progesterone huyết thanh trong ngày khởi động trưởng thành noãn - Ngày đăng: 09-09-2019
Dầu Paraffin, dầu khoáng và tiềm năng phát triển của phôi giai đoạn phân chia - Ngày đăng: 09-09-2019
Sự khác biệt về mức độ lo âu, trầm cảm và biểu hiện các dấu ấn sinh học căng thẳng ở phụ nữ mang thai sau khi thụ tinh trong ống nghiệm so với mang thai tự nhiên: Một nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu - Ngày đăng: 04-09-2019
Mối tương quan giữa phôi phát triển chậm và kết cục điều trị của bệnh nhân - Ngày đăng: 04-09-2019
Đánh giá thai chậm tăng trưởng chọn lọc khởi phát sớm và muộn trên thai kỳ song thai một bánh nhau - Ngày đăng: 04-09-2019
Wifi và khả năng sinh sản của nam giới - Ngày đăng: 04-09-2019
Béo phì ở phụ nữ ảnh hưởng tiêu cực đến tỉ lệ trẻ sinh sống sau IVF: nghiên cứu tổng quan và phân tích gộp - Ngày đăng: 04-09-2019
Xác định thông số động học và sự phát triển của phôi tiền làm tổ tạo thành từ tinh trùng trích xuất từ tinh hoàn, mào tinh và tinh trùng xuất tinh bằng hệ thống time-lapse - Ngày đăng: 31-08-2019
Liệu rằng chất lượng phôi ngày 3 có thể tiên đoán được kết cục điều trị sau khi chuyển phôi ngày 5 của nhóm bệnh nhân tiên lượng tốt? - Ngày đăng: 31-08-2019
Một chứng cứ về thất bại phân chia trong noãn có chứa mạng lưới nội chất trơn - Ngày đăng: 31-08-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK