Tin tức
on Saturday 31-08-2019 3:33pm
Danh mục: Tin quốc tế
Phạm Hoàng Huy – Chuyên viên phôi học IVFMD Phú Nhuận
Kể từ báo cáo đầu tiên của Evenson cho rằng phân mảnh DNA tinh trùng người có thể là dấu hiệu tiên lượng cho khả năng sinh sản của nam giới, các ảnh hưởng của phân mảnh DNA tinh trùng đối với vô sinh đã được nghiên cứu rộng rãi. Tuy nhiên các dữ liệu liên quan đến tác động của chỉ số phân mảnh DNA tinh trùng (DFI) cao lên sự phát triển của phôi còn hạn chế.
Phôi lệch bội là nguyên nhân phổ biến nhất cho các trường hợp sẩy thai sớm, chủ yếu là do sự bất thường về phân chia nhiễm sắc thể của noãn bào. Tuy nhiên, trong các trường hợp vô sinh với DFI cao, sẩy thai sớm cũng là một kết cục đáng quan ngại. Một nghiên cứu hồi cứu đã được thực hiện nhằm so sánh tỉ lệ phôi nang nguyên bội với các mức độ khác nhau của DFI tinh trùng người.
Nghiên cứu bao gồm 45 chu kì IVF với noãn hiến tặng. Tất cả phụ nữ cho noãn đều nhỏ hơn 32 tuổi với nồng độ AMH lớn hơn 15pmol/L. Người chồng được đánh giá tinh dịch đồ theo WHO 2010. Mẫu tinh dịch được đông lạnh và rã đông để đánh giá DFI bằng phương pháp SCSA. DFI được phân thành 2 nhóm là DFI bình thường (<15%) và DFI bất thường (>15%). Noãn được thụ tinh bằng kĩ thuật ICSI và phôi nang ngày 5 hoặc ngày 6 được sinh thiết để PGT-A và trữ lạnh sau đó. Chỉ những phôi nang bình thường mới được chuyển phôi và kết quả lâm sàng được ghi nhận.
Trong tổng số 45 chu kì được chọn vào nghiên cứu, có 27 chu kì ở nhóm DFI bất thường với trung bình 28,4 ± 2,4% và 18 chu kì ở nhóm DFI bình thường với mức trung bình là 10,1 ± 0,7% (p<0,0001). Nhóm DFI bình thường có mật độ tinh trùng và độ di động cao hơn đáng kể so với nhóm DFI bất thường, tuy nhiên không có sự khác biệt ở thông số thể tích và hình dạng tinh trùng giữa hai nhóm. Đặc điểm nền của người cho noãn là giống nhau ở hai nhóm. Tỉ lệ thụ tinh và tỉ lệ hình thành phôi nang là tương tự nhau ở hai nhóm. Có 171 phôi ở nhóm DFI bất thường và 81 phôi ở nhóm DFI bình thường được sinh thiết. Không có sự khác biệt về tỉ lệ phôi nguyên bội ở hai nhóm (69,3 ± 4,1% và 67,3 ± 5,8%, p >0.05). Kết quả chuyển phôi nhóm DFI cao (40 phôi) và nhóm DFI thấp (29 phôi) cho thấy không có sự khác biệt về tỉ lệ thai lâm sàng, tỉ lệ làm tổ và tỉ lệ thai diễn tiến khi so sánh hai nhóm DFI.
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu của các chu kì cho noãn cho phép đánh giá tối ưu mọi tác động của yếu tố nam lên bộ gene phôi. Tuy nhiên, nghiên cứu hồi cứu mắc phải một số trở ngại về mặt cỡ mẫu trên nhóm đối tượng này. Ngoài ra, quá trình trữ rã tinh trùng có thể ảnh hưởng đến DFI và ngưỡng giá trị DFI của nghiên cứu cần được cân nhắc.
Tóm lại nghiên cứu chỉ ra rằng không có sự khác biệt về tỉ lệ phôi nguyên bội khi so sánh giữa DFI bình thường và DFI bất thường với ngưỡng 15% trong các chu kì cho noãn. Nhiều nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn cần được thực hiện để kiểm tra tác động của phân mảnh DNA tinh trùng với bất thường lệch bội ở phôi.
Phôi lệch bội là nguyên nhân phổ biến nhất cho các trường hợp sẩy thai sớm, chủ yếu là do sự bất thường về phân chia nhiễm sắc thể của noãn bào. Tuy nhiên, trong các trường hợp vô sinh với DFI cao, sẩy thai sớm cũng là một kết cục đáng quan ngại. Một nghiên cứu hồi cứu đã được thực hiện nhằm so sánh tỉ lệ phôi nang nguyên bội với các mức độ khác nhau của DFI tinh trùng người.
Nghiên cứu bao gồm 45 chu kì IVF với noãn hiến tặng. Tất cả phụ nữ cho noãn đều nhỏ hơn 32 tuổi với nồng độ AMH lớn hơn 15pmol/L. Người chồng được đánh giá tinh dịch đồ theo WHO 2010. Mẫu tinh dịch được đông lạnh và rã đông để đánh giá DFI bằng phương pháp SCSA. DFI được phân thành 2 nhóm là DFI bình thường (<15%) và DFI bất thường (>15%). Noãn được thụ tinh bằng kĩ thuật ICSI và phôi nang ngày 5 hoặc ngày 6 được sinh thiết để PGT-A và trữ lạnh sau đó. Chỉ những phôi nang bình thường mới được chuyển phôi và kết quả lâm sàng được ghi nhận.
Trong tổng số 45 chu kì được chọn vào nghiên cứu, có 27 chu kì ở nhóm DFI bất thường với trung bình 28,4 ± 2,4% và 18 chu kì ở nhóm DFI bình thường với mức trung bình là 10,1 ± 0,7% (p<0,0001). Nhóm DFI bình thường có mật độ tinh trùng và độ di động cao hơn đáng kể so với nhóm DFI bất thường, tuy nhiên không có sự khác biệt ở thông số thể tích và hình dạng tinh trùng giữa hai nhóm. Đặc điểm nền của người cho noãn là giống nhau ở hai nhóm. Tỉ lệ thụ tinh và tỉ lệ hình thành phôi nang là tương tự nhau ở hai nhóm. Có 171 phôi ở nhóm DFI bất thường và 81 phôi ở nhóm DFI bình thường được sinh thiết. Không có sự khác biệt về tỉ lệ phôi nguyên bội ở hai nhóm (69,3 ± 4,1% và 67,3 ± 5,8%, p >0.05). Kết quả chuyển phôi nhóm DFI cao (40 phôi) và nhóm DFI thấp (29 phôi) cho thấy không có sự khác biệt về tỉ lệ thai lâm sàng, tỉ lệ làm tổ và tỉ lệ thai diễn tiến khi so sánh hai nhóm DFI.
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu của các chu kì cho noãn cho phép đánh giá tối ưu mọi tác động của yếu tố nam lên bộ gene phôi. Tuy nhiên, nghiên cứu hồi cứu mắc phải một số trở ngại về mặt cỡ mẫu trên nhóm đối tượng này. Ngoài ra, quá trình trữ rã tinh trùng có thể ảnh hưởng đến DFI và ngưỡng giá trị DFI của nghiên cứu cần được cân nhắc.
Tóm lại nghiên cứu chỉ ra rằng không có sự khác biệt về tỉ lệ phôi nguyên bội khi so sánh giữa DFI bình thường và DFI bất thường với ngưỡng 15% trong các chu kì cho noãn. Nhiều nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn cần được thực hiện để kiểm tra tác động của phân mảnh DNA tinh trùng với bất thường lệch bội ở phôi.
Nguồn: Sperm DNA fragmentation index does not correlate with blastocyst euploidy rate in egg donor cycles, Gynecological Endocrinology 2018.
Các tin khác cùng chuyên mục:
ICSI không hiệu quả hơn so với IVF cổ điển ở các nhóm đáp ứng buồng trứng khác nhau - Ngày đăng: 28-08-2019
Stress tại nơi làm việc: kết quả từ cuộc khảo sát stress của các chuyên gia phòng thí nghiệm hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 28-08-2019
Lợi ích và thách thức của việc sử dụng trí tuệ nhân tạo trong các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 28-08-2019
Liệu có thể tiên đoán trẻ sinh sống với các dấu ấn sinh học mới không xâm lấn ở giai đoạn sớm của phôi trên chất lượng phôi quan sát bởi hệ thống time-lapse? - Ngày đăng: 28-08-2019
Lợi ích và thách thức của ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 26-08-2019
Chuyển phôi giai đoạn nào là tối ưu cho những bệnh nhân chỉ có một hoặc hai phôi giai đoạn phân chia - Ngày đăng: 19-08-2019
Mối tương quan hạn chế giữa nồng độ gốc oxy hóa tự do trong môi trường nuôi cấy với sự phát triển của hợp tử và phôi - Ngày đăng: 19-08-2019
Yoga và sức khoẻ sinh sản của nam giới - Ngày đăng: 19-08-2019
Trữ lạnh noãn để có cơ hội mang thai bằng thụ tinh trong ống nghiệm nhiều năm về sau - Ngày đăng: 19-08-2019
Ảnh hưởng của lạc nội mạc tử cung lên thai kỳ - Ngày đăng: 19-08-2019
Nhiều phôi có thực sự tốt? Đáp án từ phân tích trên 16.666 chu kỳ chuyển phôi tươi đơn phôi nang - Ngày đăng: 19-08-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK