Tin tức
on Wednesday 28-08-2019 11:18am
Danh mục: Tin quốc tế
Phạm Hoàng Huy – Chuyên viên phôi học IVFMD Phú Nhuận
Phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) cổ điển và tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) hiện đang là hai phương pháp thụ tinh được sử dụng trong kĩ thuật hỗ trợ sinh sản. Mặc dù ra đời với chỉ định chủ yếu là các trường hợp vô sinh do yếu tố nam, ICSI hiện đang được sử dụng cho hầu hết các nguyên nhân gây vô sinh với lý do cải thiện tỉ lệ thụ tinh so với IVF cổ điển. Tuy nhiên, lợi ích thật sự của ICSI so với IVF vẫn chưa được chứng minh với chứng cứ đủ mạnh.
Số lượng noãn bào thu được là một yếu tố dự đoán quan trọng cho sự thành công của một chu kì TTTON. Gần đây, một nghiên cứu đăng trên tạp chí JARG đã so sánh hiệu quả của IVF cổ điển so với ICSI theo số lượng noãn thu nhận được trên nhóm bệnh nhân vô sinh không do yếu tố nam, với mục đích là đánh giá đáp ứng buồng trứng trong kích thích buồng trứng có kiểm soát có nên là yếu tố quyết định cho sự lựa chọn phương pháp thụ tinh hay không.
Nghiên cứu hồi cứu dữ liệu từ chu kì IVF hoặc ICSI đầu tiên của bệnh nhân vô sinh không do yếu tố nam theo xét nghiệm tinh dịch đồ WHO 2010. Bệnh nhân được kích thích buồng trứng bằng phác đồ GnRH antagonist. Nghiên cứu loại trừ các trường hợp sử dụng tinh trùng trữ; thực hiện thụ tinh bằng cả hai phương pháp IVF và ICSI; PGT; IVM; cho noãn và đông lạnh noãn. Bệnh nhân được chia thành 4 nhóm theo số lượng noãn bào thu nhận: nhóm 1 (1-3); nhóm 2 (4-9); nhóm 3 (10-15) và nhóm 4 (>15) tương ứng với các mức đáp ứng buồng trứng kém, dưới mức tối ưu, bình thường và đáp ứng cao.
Tổng cộng có 4891 bệnh nhân được nhận vào nghiên cứu, bao gồm 4427 (86,4%) ICSI và 664 (13,6%) IVF. Không có sự khác biệt có ý nghĩa về phương pháp thụ tinh được sử dụng giữa các mức đáp ứng buồng trứng khác nhau. Số phôi chuyển trong lần chuyển phôi tươi của phương pháp ICSI nhiều hơn so với IVF ở các nhóm đáp ứng dưới mức tối ưu, đáp ứng bình thường và đáp ứng cao (p<0.002) và không có ý nghĩa ở nhóm đáp ứng kém (p = 0.99). Không có sự khác biệt về tỉ lệ trẻ sinh sống và tỉ lệ trẻ sinh sống cộng dồn giữa hai phương pháp IVF và ICSI trong 4 nhóm đáp ứng buồng trứng. Phân tích hồi quy đa biến cho thấy phương pháp thụ tinh không liên quan đến tỉ lệ thụ tinh.
Nghiên cứu chỉ ra rằng trong chu kì kích thích buồng trứng đầu tiên ở nhóm bệnh nhân vô sinh không do yếu tố nam, số lượng noãn bào thu được không có giá trị tiên lượng cho việc lựa chọn phương pháp thụ tinh. Tác giả cho rằng nên cân nhắc về mặt chi phí khi lựa chọn ICSI cho các trường hợp vô sinh không do nam giới. Hơn nữa, các nghiên cứu lớn hơn nên được thực hiện để chứng minh hiệu quả - chi phí của IVF cổ điển so với ICSI.
Nguồn: ICSI does not offer any benefit over conventional IVF across different ovarian response categories in non-male factor infertility: a european multicenter analysis. JARG, 2019.
Số lượng noãn bào thu được là một yếu tố dự đoán quan trọng cho sự thành công của một chu kì TTTON. Gần đây, một nghiên cứu đăng trên tạp chí JARG đã so sánh hiệu quả của IVF cổ điển so với ICSI theo số lượng noãn thu nhận được trên nhóm bệnh nhân vô sinh không do yếu tố nam, với mục đích là đánh giá đáp ứng buồng trứng trong kích thích buồng trứng có kiểm soát có nên là yếu tố quyết định cho sự lựa chọn phương pháp thụ tinh hay không.
Nghiên cứu hồi cứu dữ liệu từ chu kì IVF hoặc ICSI đầu tiên của bệnh nhân vô sinh không do yếu tố nam theo xét nghiệm tinh dịch đồ WHO 2010. Bệnh nhân được kích thích buồng trứng bằng phác đồ GnRH antagonist. Nghiên cứu loại trừ các trường hợp sử dụng tinh trùng trữ; thực hiện thụ tinh bằng cả hai phương pháp IVF và ICSI; PGT; IVM; cho noãn và đông lạnh noãn. Bệnh nhân được chia thành 4 nhóm theo số lượng noãn bào thu nhận: nhóm 1 (1-3); nhóm 2 (4-9); nhóm 3 (10-15) và nhóm 4 (>15) tương ứng với các mức đáp ứng buồng trứng kém, dưới mức tối ưu, bình thường và đáp ứng cao.
Tổng cộng có 4891 bệnh nhân được nhận vào nghiên cứu, bao gồm 4427 (86,4%) ICSI và 664 (13,6%) IVF. Không có sự khác biệt có ý nghĩa về phương pháp thụ tinh được sử dụng giữa các mức đáp ứng buồng trứng khác nhau. Số phôi chuyển trong lần chuyển phôi tươi của phương pháp ICSI nhiều hơn so với IVF ở các nhóm đáp ứng dưới mức tối ưu, đáp ứng bình thường và đáp ứng cao (p<0.002) và không có ý nghĩa ở nhóm đáp ứng kém (p = 0.99). Không có sự khác biệt về tỉ lệ trẻ sinh sống và tỉ lệ trẻ sinh sống cộng dồn giữa hai phương pháp IVF và ICSI trong 4 nhóm đáp ứng buồng trứng. Phân tích hồi quy đa biến cho thấy phương pháp thụ tinh không liên quan đến tỉ lệ thụ tinh.
Nghiên cứu chỉ ra rằng trong chu kì kích thích buồng trứng đầu tiên ở nhóm bệnh nhân vô sinh không do yếu tố nam, số lượng noãn bào thu được không có giá trị tiên lượng cho việc lựa chọn phương pháp thụ tinh. Tác giả cho rằng nên cân nhắc về mặt chi phí khi lựa chọn ICSI cho các trường hợp vô sinh không do nam giới. Hơn nữa, các nghiên cứu lớn hơn nên được thực hiện để chứng minh hiệu quả - chi phí của IVF cổ điển so với ICSI.
Nguồn: ICSI does not offer any benefit over conventional IVF across different ovarian response categories in non-male factor infertility: a european multicenter analysis. JARG, 2019.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Stress tại nơi làm việc: kết quả từ cuộc khảo sát stress của các chuyên gia phòng thí nghiệm hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 28-08-2019
Lợi ích và thách thức của việc sử dụng trí tuệ nhân tạo trong các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 28-08-2019
Liệu có thể tiên đoán trẻ sinh sống với các dấu ấn sinh học mới không xâm lấn ở giai đoạn sớm của phôi trên chất lượng phôi quan sát bởi hệ thống time-lapse? - Ngày đăng: 28-08-2019
Lợi ích và thách thức của ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 26-08-2019
Chuyển phôi giai đoạn nào là tối ưu cho những bệnh nhân chỉ có một hoặc hai phôi giai đoạn phân chia - Ngày đăng: 19-08-2019
Mối tương quan hạn chế giữa nồng độ gốc oxy hóa tự do trong môi trường nuôi cấy với sự phát triển của hợp tử và phôi - Ngày đăng: 19-08-2019
Yoga và sức khoẻ sinh sản của nam giới - Ngày đăng: 19-08-2019
Trữ lạnh noãn để có cơ hội mang thai bằng thụ tinh trong ống nghiệm nhiều năm về sau - Ngày đăng: 19-08-2019
Ảnh hưởng của lạc nội mạc tử cung lên thai kỳ - Ngày đăng: 19-08-2019
Nhiều phôi có thực sự tốt? Đáp án từ phân tích trên 16.666 chu kỳ chuyển phôi tươi đơn phôi nang - Ngày đăng: 19-08-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK