Tin tức
on Monday 26-08-2019 9:48am
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Phạm Thanh Liêm - IVFMD Phú Nhuận
Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence - AI) là thuật ngữ lần đầu tiên được đặt ra bởi một nhóm các nhà khoa học vào năm 1955, nó được hiểu đơn giản là ngành khoa học giúp máy móc có thể làm những việc đòi hỏi trí thông minh nếu được thực hiện bởi con người. Kể từ đó, AI đã phát triển nhanh chóng và ứng dụng rất nhiều vào cuộc sống hàng ngày, ví dụ như khả năng lái xe tự động, nhận dạng khuôn mặt và hỗ trợ bằng giọng nói. AI cũng được sử dụng trong ngành y tế, các lĩnh vực đã được hưởng lợi từ các ứng dụng AI như ung thư, tim mạch và chẩn đoán hình ảnh. AI được thực hiện lần đầu trong công nghệ hỗ trợ sinh sản (ART) vào năm 1997 (Kaufmann và cs), thông qua việc tạo ra một thuật toán nhằm mục đích dự đoán kết quả của thụ tinh ống nghiệm. Nhiều công nghệ AI sử dụng các dạng thuật toán khác nhau, bao gồm phân loại chất lượng tinh trùng, noãn và lựa chọn phôi tốt.
Trong một nghiên cứu gần đây được báo cáo bởi Pegah Khosravi và cs (2019), các nhà nghiên cứu tạo ra một thuật toán AI để xác định chất lượng phôi với độ chính xác lên đến 97%. Sử dụng thuật toán AI như là một cách đánh giá khách quan, hỗ trợ các chuyên viên phôi học đánh giá chất lượng phôi khi họ phân tích hình thái quan sát được - một đánh giá chủ quan liên quan đến phân loại thủ công trên phôi người. Mặc dù các thuật toán không thể dự đoán tỷ lệ có thai, nhưng thông tin chính xác nó có thể cung cấp về chất lượng phôi là một biến số quan trọng khi nó phân tích cùng với những yếu tố khác (ví dụ như tuổi) có thể giúp cải thiện cơ hội có thai của một cặp vợ chồng hiếm muộn.
Việc giới thiệu tiềm năng ứng dụng AI vào hỗ trợ sinh sản mang lại nhiều lợi ích to lớn trong lâm sàng và giá trị về mặt đạo đức xã hội. Nếu AI được chấp thuận cho các ứng dụng lâm sàng, việc sử dụng AI để lựa chọn phôi chất lượng tốt từ những người có nhiễm sắc thể bất thường có thể giúp tiết kiệm thời gian và công sức của nhân viên y tế, bằng cách xử lý, giải thích dữ liệu kết hợp từ các yếu tố và chính xác hơn. Điều này có thể giúp lựa chọn phương pháp và nâng cao hiệu quả điều trị cho bệnh nhân vô sinh. Về mặt xã hội, AI có thể giảm thiểu chi phí chăm sóc sức khỏe bằng cách giảm việc sử dụng các xét nghiệm hoặc điều trị không cần thiết.
Việc ứng dụng AI trong hỗ trợ sinh sản hiện nay phát triển rất nhanh từ nghiên cứu đến lâm sàng, vì vậy tất cả các bên liên quan bao gồm những người ra quyết định, bác sĩ lâm sàng và các nhà khoa học nên suy nghĩ về những thách thức đạo đức có thể phát sinh. Ví dụ, người ta lo ngại rằng các kỹ thuật AI có thể thay thế các chuyên gia sức khỏe nếu hiệu suất của nó vượt trội hơn. Chúng ta nên lưu ý rằng AI chỉ nên là một công cụ để hỗ trợ nhân viên y tế trong việc cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe một cách hiệu quả và chính xác hơn, chứ không phải dùng để thay thế công việc của nhân viên y tế.
Một trường hợp nên cân nhắc trong điều trị hỗ trợ sinh sản đó là nếu việc lựa chọn phôi được thực hiện bởi các thuật toán AI thực hiện sai, dẫn đến các phôi được chọn dường như bất thường khi làm tổ hoặc trong quá trình mang thai. Vậy người sẽ chịu trách nhiệm về kết quả không mong muốn này là ai? Chuyên gia sức khỏe hoặc AI? Như vậy, trước khi ứng dụng RI rộng rãi trên lâm sàng cần có những biện pháp (pháp lý, cơ quan tổ chức, đạo đức, …) để tránh các tình huống không mong muốn, cũng như giải quyết các sự cố có thể xảy ra.
Cho đến nay, sự ra đời của kỹ thuật AI là một cuộc cách mạng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe và có thể làm thay đổi cả kinh nghiệm điều trị cũng như trong thực hành lâm sàng của các chuyên gia y tế. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức ở các khía cạnh cần được xem xét và khắc phục. Những người quản lý cần có chủ trương, chính sách và khuyến cáo để cung cấp một hướng dẫn cụ thể cho việc sử dụng và thực hành công nghệ AI trong ngành y tế, cụ thể là ứng dụng trong công nghệ hỗ trợ sinh sản như hiện nay.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Chuyển phôi giai đoạn nào là tối ưu cho những bệnh nhân chỉ có một hoặc hai phôi giai đoạn phân chia - Ngày đăng: 19-08-2019
Mối tương quan hạn chế giữa nồng độ gốc oxy hóa tự do trong môi trường nuôi cấy với sự phát triển của hợp tử và phôi - Ngày đăng: 19-08-2019
Yoga và sức khoẻ sinh sản của nam giới - Ngày đăng: 19-08-2019
Trữ lạnh noãn để có cơ hội mang thai bằng thụ tinh trong ống nghiệm nhiều năm về sau - Ngày đăng: 19-08-2019
Ảnh hưởng của lạc nội mạc tử cung lên thai kỳ - Ngày đăng: 19-08-2019
Nhiều phôi có thực sự tốt? Đáp án từ phân tích trên 16.666 chu kỳ chuyển phôi tươi đơn phôi nang - Ngày đăng: 19-08-2019
Mối tương quan của môi trường nuôi cấy với sự tăng trưởng, cân nặng và sự phát triển của hệ tim mạch của trẻ IVF lúc 9 tuổi - Ngày đăng: 19-08-2019
Xét nghiệm đánh giá sự phân mảnh DNA tinh trùng có nên được sử dụng thường quy để chẩn đoán vô sinh nam không? - Ngày đăng: 15-08-2019
Chuyển phôi đông lạnh có tốt hơn cho mẹ và bé? - Ngày đăng: 15-08-2019
Tác động của liệu pháp âm nhạc lên việc giảm đau và stress khi chọc hút noãn - Ngày đăng: 15-08-2019
Mối tương quan giữa động học hình thái phôi và tuổi phụ nữ trong điều trị thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 15-08-2019
Lipocalon-1 là dấu chỉ tiềm năng trong sàng lọc lệch bội không xâm lấn - Ngày đăng: 11-08-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK