Tin tức
on Wednesday 04-09-2019 5:27pm
Danh mục: Tin quốc tế
Sự gia tăng tỉ lệ béo phì được quan sát thấy trong ba thập kỷ qua trên toàn thế giới, đặc biệt là ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Béo phì ở nữ có liên quan mật thiết đến giảm khả năng sinh sản tự nhiên cũng như các tác động không tốt trong thai kỳ. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy béo phì ở nữ ảnh hưởng xấu đến kết quả điều trị thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Một nghiên cứu tổng quan và phân tích gộp vừa đăng trên tạp chí Human Reproduction đã cho thấy béo phì thật sự tác động xấu đến kết quả trẻ sinh sống ở phụ nữ điều trị IVF.
Có tổng số 21 nghiên cứu liên quan đến phụ nữ béo phì và trẻ sinh sống sau IVF từ năm 2007 đến năm 2017 được tổng hợp trong phân tích gộp này. Tình trạng béo phì được phân nhóm theo BMI, nhóm bình thường có BMI từ 18,5-24,9 kg/m2, nhóm béo phì có BMI ≥ 30 kg/m2.
Khi so sánh nhóm béo phì và nhóm bình thường, chỉ số RR (95% CI) cho tỉ lệ trẻ sinh sống là 0,85 (0,82 - 0,87) với chỉ số không đồng nhất ở mức trung bình 48%. Theo phân nhóm nguồn gốc noãn bào, dù là noãn tự thân hay noãn hiến tặng thì tỉ lệ trẻ sinh sống ở nhóm béo phì vẫn thấp hơn so với nhóm cân nặng bình thường. Phân tích nhóm theo tình trạng buồng trứng (PCOS, không PCOS, cả hai, không xác định) cho thấy RR (95% CI) cho tỉ lệ trẻ sinh sống ở nhóm béo phì thấp hơn đáng kể so với nhóm cân nặng bình thường ở nhóm bệnh nhân PCOS (RR 95% CI: 0,78; 0,74 - 0,82), trong khi ở nhóm không PCOS thì kết quả trẻ sinh sống không khác biệt (RR 95% CI: 0,92; 0,68 - 1,25).
Phân tích gộp này dựa trên 682.535 chu kỳ trong 21 nghiên cứu đã chứng minh rằng béo phì ở nữ có ảnh hưởng nghiêm trọng đến tỉ lệ trẻ sinh sống sau IVF. Các cặp vợ chồng điều trị IVF nên được tư vấn về ảnh hưởng của béo phì đến cơ hội có trẻ sinh sống dù cho giảm cân có làm cải thiện kết quả hay không cân được nghiên cứu rõ hơn.
CVPH. Phạm Hoàng Huy – IVFMD Phú Nhuận
Nguồn: Female obesity is negatively associated with live birth rate following IVF: a systematic review and meta-analysis. Human Reproduction Update, pp. 1–13, 2019.
Có tổng số 21 nghiên cứu liên quan đến phụ nữ béo phì và trẻ sinh sống sau IVF từ năm 2007 đến năm 2017 được tổng hợp trong phân tích gộp này. Tình trạng béo phì được phân nhóm theo BMI, nhóm bình thường có BMI từ 18,5-24,9 kg/m2, nhóm béo phì có BMI ≥ 30 kg/m2.
Khi so sánh nhóm béo phì và nhóm bình thường, chỉ số RR (95% CI) cho tỉ lệ trẻ sinh sống là 0,85 (0,82 - 0,87) với chỉ số không đồng nhất ở mức trung bình 48%. Theo phân nhóm nguồn gốc noãn bào, dù là noãn tự thân hay noãn hiến tặng thì tỉ lệ trẻ sinh sống ở nhóm béo phì vẫn thấp hơn so với nhóm cân nặng bình thường. Phân tích nhóm theo tình trạng buồng trứng (PCOS, không PCOS, cả hai, không xác định) cho thấy RR (95% CI) cho tỉ lệ trẻ sinh sống ở nhóm béo phì thấp hơn đáng kể so với nhóm cân nặng bình thường ở nhóm bệnh nhân PCOS (RR 95% CI: 0,78; 0,74 - 0,82), trong khi ở nhóm không PCOS thì kết quả trẻ sinh sống không khác biệt (RR 95% CI: 0,92; 0,68 - 1,25).
Phân tích gộp này dựa trên 682.535 chu kỳ trong 21 nghiên cứu đã chứng minh rằng béo phì ở nữ có ảnh hưởng nghiêm trọng đến tỉ lệ trẻ sinh sống sau IVF. Các cặp vợ chồng điều trị IVF nên được tư vấn về ảnh hưởng của béo phì đến cơ hội có trẻ sinh sống dù cho giảm cân có làm cải thiện kết quả hay không cân được nghiên cứu rõ hơn.
CVPH. Phạm Hoàng Huy – IVFMD Phú Nhuận
Nguồn: Female obesity is negatively associated with live birth rate following IVF: a systematic review and meta-analysis. Human Reproduction Update, pp. 1–13, 2019.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Xác định thông số động học và sự phát triển của phôi tiền làm tổ tạo thành từ tinh trùng trích xuất từ tinh hoàn, mào tinh và tinh trùng xuất tinh bằng hệ thống time-lapse - Ngày đăng: 31-08-2019
Liệu rằng chất lượng phôi ngày 3 có thể tiên đoán được kết cục điều trị sau khi chuyển phôi ngày 5 của nhóm bệnh nhân tiên lượng tốt? - Ngày đăng: 31-08-2019
Một chứng cứ về thất bại phân chia trong noãn có chứa mạng lưới nội chất trơn - Ngày đăng: 31-08-2019
Chỉ số phân mảnh DNA tinh trùng không liên quan đến tỉ lệ phôi nang nguyên bội trong các chu kì cho noãn - Ngày đăng: 31-08-2019
ICSI không hiệu quả hơn so với IVF cổ điển ở các nhóm đáp ứng buồng trứng khác nhau - Ngày đăng: 28-08-2019
Stress tại nơi làm việc: kết quả từ cuộc khảo sát stress của các chuyên gia phòng thí nghiệm hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 28-08-2019
Lợi ích và thách thức của việc sử dụng trí tuệ nhân tạo trong các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 28-08-2019
Liệu có thể tiên đoán trẻ sinh sống với các dấu ấn sinh học mới không xâm lấn ở giai đoạn sớm của phôi trên chất lượng phôi quan sát bởi hệ thống time-lapse? - Ngày đăng: 28-08-2019
Lợi ích và thách thức của ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 26-08-2019
Chuyển phôi giai đoạn nào là tối ưu cho những bệnh nhân chỉ có một hoặc hai phôi giai đoạn phân chia - Ngày đăng: 19-08-2019
Mối tương quan hạn chế giữa nồng độ gốc oxy hóa tự do trong môi trường nuôi cấy với sự phát triển của hợp tử và phôi - Ngày đăng: 19-08-2019
Yoga và sức khoẻ sinh sản của nam giới - Ngày đăng: 19-08-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK