Tin tức
on Monday 09-09-2019 6:20pm
Danh mục: Tin quốc tế
Ngày nay, việc lựa chọn chuyển đơn phôi ngày càng được ủng hộ, tuy nhiên người ta vẫn lo lắng về việc giảm số phôi chuyển sẽ làm giảm tỷ lệ mang thai nên nhiều trung tâm vẫn có xu hướng chuyển nhiều phôi. Theo một số nghiên cứu hiện tại, việc nuôi cấy phôi dài ngày kết hợp với trữ phôi toàn bộ và chuyển một phôi trữ ở những chu kỳ kế tiếp có khả năng làm tăng tỷ lệ thai đặc biệt ở nhóm bệnh nhân bị hội chứng đa nang buồng trứng (PCOS). Vậy đối với những bệnh nhân thuộc nhóm tiên lượng phóng noãn tốt thì sao, liệu ở nhóm bệnh nhân này việc chuyển đơn phôi trữ có làm tăng tỷ lệ trẻ sinh sống so với chuyển đơn phôi tươi hay không?
Để trả lời cho câu hỏi trên, một nghiên cứu RCT đã được thực hiện ở 21 trung tâm hỗ trợ sinh sản ở Trung Quốc trên 1.650 phụ nữ có chu kỳ kinh nguyệt bình thường thực hiện chu kỳ thụ tinh ống nghiệm lần đầu tiên từ ngày 1 tháng 8 năm 2016 đến ngày 3 tháng 6 năm 2017. Bệnh nhân sẽ được chỉ định ngẫu nhiên chuyển 1 phôi nang là phôi tươi hoặc phôi trữ. Đối với bệnh nhân chuyển phôi trữ, tất cả phôi nang được trữ đông và chuyển phôi trữ ở các chu kì tiếp theo.
Kết quả của nghiên cứu cho thấy việc chuyển một phôi nang trữ cho tỷ lệ một trẻ sinh sống cao hơn đáng kể so với chuyển một phôi nang tươi (50% so với 40%, [RR] 1.26, 95% CI 1.14 – 1.41, p < 0.0001). Nhóm tác giả cũng báo cáo chuyển một phôi nang trữ cho tỷ lệ làm tổ, tỷ lệ thai lâm sàng, tỷ lệ thai diễn tiến cao hơn đáng kể so với chuyển một phôi nang tươi. Nhóm tác giả cho rằng, tỷ lệ làm tổ cao hơn có thể phụ thuộc vào ba yếu tố: phôi có khả năng làm tổ tốt hơn, nội mạc tử cung có khả năng tiếp nhận tốt hơn và sự phát triển đồng bộ của phôi và nội mạc tử cung. Trong ba yếu tố trên, yếu tố thứ ba từ trước đến nay vẫn luôn được xem như một lời giải thích hợp lý về việc tỷ lệ làm tổ của phôi tươi thấp hơn so với phôi trữ. Vì việc kích thích buồng trứng có thể làm tăng nồng độ estrogen trên ngưỡng sinh lý bình thường từ đó tác động xấu đến sự phát triển của nội mạc tử cung so với sự hình thành nội mạc tử cung trong chu kỳ tự nhiên. Bên cạnh đó, nguy cơ quá kích buồng trứng vừa hoặc nặng, tỷ lệ sẩy thai, các biến chứng sản khoa và tỷ lệ mắc bệnh ở trẻ sơ sinh là tương tự nhau ở cả hai nhóm. Tuy nhiên, việc chuyển một phôi nang trữ lạnh có liên quan đến nguy cơ mắc phải tiền sản giật cao hơn đáng kể so với chuyển một phôi nang tươi (3.1% vs 1.0%, [RR] 3.13, 95% CI 1.06 – 9.30, p = 0.029).
Với kết quả trên, cựu chủ tịch ASRM, Christos Coutifaris trong một bài bình luận đã đặt ra câu hỏi liệu rằng tỷ lệ trẻ sinh sống cải thiện 10% (từ 40% khi chuyển phôi tươi so với 50% khi chuyển phôi trữ) và kèm theo tăng nguy cơ gây ra các biến chứng trong thai kỳ thì có nên ủng hộ con đường chuyển phôi trữ lạnh tất cả các phôi giai đoạn phôi nang. Theo Coutifaris, ông vẫn nghiêng về hướng chuyển một phôi nang tươi hơn vì ông cho rằng tỷ lệ trẻ sinh sống đạt được 40% vẫn là một kết quả tốt về mặt lâm sàng trong khi đó lại không mắc phải nguy cơ tiền sản giật cao hơn.
Vậy liệu có nên đưa ra chỉ định trữ phôi toàn bộ và chuyển phôi trữ cho tất cả các trường hợp? Như nhóm tác giả đã nhấn mạnh, đây là nghiên cứu RCT đầu tiên cho thấy lợi ích đáng kể khi thực hiện chuyển phôi nang trữ trong quần thể bệnh nhân thực hiện hỗ trợ sinh sản. Trước đây đã có 2 nghiên cứu chứng minh việc chuyển phôi trữ không có ý nghĩa ở nhóm bệnh nhân có khả năng phóng noãn bình thường, mà chỉ có kết quả vượt trội ở nhóm bệnh nhân bị PCOS. Hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề cần được cân nhắc để có thể chỉ định rộng rãi chuyển phôi trữ toàn bộ nhóm bệnh nhân như tâm lý, tài chính của bệnh nhân khi phải kéo dài quy trình, bệnh nhân có đáp ứng buồng trứng kém và hiệu quả ở nhóm bệnh nhân lớn tuổi. Tuy nhiên, bất chấp những vấn đề đang được cân nhắc và dữ liệu vẫn còn chắp vá, trữ phôi toàn bộ và chuyển phôi nang trữ dường như ngày càng được chấp nhận và đang mang lại tỷ lệ sinh sống chấp nhận được trong phổ rộng bệnh nhân.
CVPH. Hồ Thị Mỹ Trang – IVFMDPN
Nguồn: Improved IVF birth rates following deferred blastocyst transfer. ESHRE, 2019. https://www.focusonreproduction.eu/article/News-in-Reproduction-Freeze-all-update
Để trả lời cho câu hỏi trên, một nghiên cứu RCT đã được thực hiện ở 21 trung tâm hỗ trợ sinh sản ở Trung Quốc trên 1.650 phụ nữ có chu kỳ kinh nguyệt bình thường thực hiện chu kỳ thụ tinh ống nghiệm lần đầu tiên từ ngày 1 tháng 8 năm 2016 đến ngày 3 tháng 6 năm 2017. Bệnh nhân sẽ được chỉ định ngẫu nhiên chuyển 1 phôi nang là phôi tươi hoặc phôi trữ. Đối với bệnh nhân chuyển phôi trữ, tất cả phôi nang được trữ đông và chuyển phôi trữ ở các chu kì tiếp theo.
Kết quả của nghiên cứu cho thấy việc chuyển một phôi nang trữ cho tỷ lệ một trẻ sinh sống cao hơn đáng kể so với chuyển một phôi nang tươi (50% so với 40%, [RR] 1.26, 95% CI 1.14 – 1.41, p < 0.0001). Nhóm tác giả cũng báo cáo chuyển một phôi nang trữ cho tỷ lệ làm tổ, tỷ lệ thai lâm sàng, tỷ lệ thai diễn tiến cao hơn đáng kể so với chuyển một phôi nang tươi. Nhóm tác giả cho rằng, tỷ lệ làm tổ cao hơn có thể phụ thuộc vào ba yếu tố: phôi có khả năng làm tổ tốt hơn, nội mạc tử cung có khả năng tiếp nhận tốt hơn và sự phát triển đồng bộ của phôi và nội mạc tử cung. Trong ba yếu tố trên, yếu tố thứ ba từ trước đến nay vẫn luôn được xem như một lời giải thích hợp lý về việc tỷ lệ làm tổ của phôi tươi thấp hơn so với phôi trữ. Vì việc kích thích buồng trứng có thể làm tăng nồng độ estrogen trên ngưỡng sinh lý bình thường từ đó tác động xấu đến sự phát triển của nội mạc tử cung so với sự hình thành nội mạc tử cung trong chu kỳ tự nhiên. Bên cạnh đó, nguy cơ quá kích buồng trứng vừa hoặc nặng, tỷ lệ sẩy thai, các biến chứng sản khoa và tỷ lệ mắc bệnh ở trẻ sơ sinh là tương tự nhau ở cả hai nhóm. Tuy nhiên, việc chuyển một phôi nang trữ lạnh có liên quan đến nguy cơ mắc phải tiền sản giật cao hơn đáng kể so với chuyển một phôi nang tươi (3.1% vs 1.0%, [RR] 3.13, 95% CI 1.06 – 9.30, p = 0.029).
Với kết quả trên, cựu chủ tịch ASRM, Christos Coutifaris trong một bài bình luận đã đặt ra câu hỏi liệu rằng tỷ lệ trẻ sinh sống cải thiện 10% (từ 40% khi chuyển phôi tươi so với 50% khi chuyển phôi trữ) và kèm theo tăng nguy cơ gây ra các biến chứng trong thai kỳ thì có nên ủng hộ con đường chuyển phôi trữ lạnh tất cả các phôi giai đoạn phôi nang. Theo Coutifaris, ông vẫn nghiêng về hướng chuyển một phôi nang tươi hơn vì ông cho rằng tỷ lệ trẻ sinh sống đạt được 40% vẫn là một kết quả tốt về mặt lâm sàng trong khi đó lại không mắc phải nguy cơ tiền sản giật cao hơn.
Vậy liệu có nên đưa ra chỉ định trữ phôi toàn bộ và chuyển phôi trữ cho tất cả các trường hợp? Như nhóm tác giả đã nhấn mạnh, đây là nghiên cứu RCT đầu tiên cho thấy lợi ích đáng kể khi thực hiện chuyển phôi nang trữ trong quần thể bệnh nhân thực hiện hỗ trợ sinh sản. Trước đây đã có 2 nghiên cứu chứng minh việc chuyển phôi trữ không có ý nghĩa ở nhóm bệnh nhân có khả năng phóng noãn bình thường, mà chỉ có kết quả vượt trội ở nhóm bệnh nhân bị PCOS. Hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề cần được cân nhắc để có thể chỉ định rộng rãi chuyển phôi trữ toàn bộ nhóm bệnh nhân như tâm lý, tài chính của bệnh nhân khi phải kéo dài quy trình, bệnh nhân có đáp ứng buồng trứng kém và hiệu quả ở nhóm bệnh nhân lớn tuổi. Tuy nhiên, bất chấp những vấn đề đang được cân nhắc và dữ liệu vẫn còn chắp vá, trữ phôi toàn bộ và chuyển phôi nang trữ dường như ngày càng được chấp nhận và đang mang lại tỷ lệ sinh sống chấp nhận được trong phổ rộng bệnh nhân.
CVPH. Hồ Thị Mỹ Trang – IVFMDPN
Nguồn: Improved IVF birth rates following deferred blastocyst transfer. ESHRE, 2019. https://www.focusonreproduction.eu/article/News-in-Reproduction-Freeze-all-update
Các tin khác cùng chuyên mục:
Sự biến động của nồng độ progesterone huyết thanh trong ngày khởi động trưởng thành noãn - Ngày đăng: 09-09-2019
Dầu Paraffin, dầu khoáng và tiềm năng phát triển của phôi giai đoạn phân chia - Ngày đăng: 09-09-2019
Sự khác biệt về mức độ lo âu, trầm cảm và biểu hiện các dấu ấn sinh học căng thẳng ở phụ nữ mang thai sau khi thụ tinh trong ống nghiệm so với mang thai tự nhiên: Một nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu - Ngày đăng: 04-09-2019
Mối tương quan giữa phôi phát triển chậm và kết cục điều trị của bệnh nhân - Ngày đăng: 04-09-2019
Đánh giá thai chậm tăng trưởng chọn lọc khởi phát sớm và muộn trên thai kỳ song thai một bánh nhau - Ngày đăng: 04-09-2019
Wifi và khả năng sinh sản của nam giới - Ngày đăng: 04-09-2019
Béo phì ở phụ nữ ảnh hưởng tiêu cực đến tỉ lệ trẻ sinh sống sau IVF: nghiên cứu tổng quan và phân tích gộp - Ngày đăng: 04-09-2019
Xác định thông số động học và sự phát triển của phôi tiền làm tổ tạo thành từ tinh trùng trích xuất từ tinh hoàn, mào tinh và tinh trùng xuất tinh bằng hệ thống time-lapse - Ngày đăng: 31-08-2019
Liệu rằng chất lượng phôi ngày 3 có thể tiên đoán được kết cục điều trị sau khi chuyển phôi ngày 5 của nhóm bệnh nhân tiên lượng tốt? - Ngày đăng: 31-08-2019
Một chứng cứ về thất bại phân chia trong noãn có chứa mạng lưới nội chất trơn - Ngày đăng: 31-08-2019
Chỉ số phân mảnh DNA tinh trùng không liên quan đến tỉ lệ phôi nang nguyên bội trong các chu kì cho noãn - Ngày đăng: 31-08-2019
ICSI không hiệu quả hơn so với IVF cổ điển ở các nhóm đáp ứng buồng trứng khác nhau - Ngày đăng: 28-08-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK