Tin tức
on Monday 09-09-2019 6:11pm
Danh mục: Tin quốc tế
Trong IVF, dầu được sử dụng làm lớp phủ vi giọt nhằm duy trì sự ổn định của môi trường trong suốt quá trình nuôi cấy. Lớp dầu phủ giúp cố định giọt môi trường, làm giảm sự bay hơi, duy trì nhiệt độ và pH (Wale và Gardner 2016). Do đó, việc chọn lựa loại dầu và những ảnh hưởng của dầu phủ đến phôi trong in vitro luôn được quan tâm.
Labied và cộng sự đã tiến hành so sánh tiềm năng phát triển đến giai đoạn phôi ngày 3 và tỉ lệ trẻ sinh sống giữa môi trường được phủ bằng dầu paraffin (Ovoil ™, Vitrolife) và dầu khoáng (LiteOil®, LifeGlobal) từ tháng 8/2014 đến tháng 7/2015 tại trung tâm hỗ trợ sinh sản Đại học Liège (CHR, Citadelle). Nghiên cứu được thực hiện trên 101 chu kì ICSI với 1.237 noãn MII được chia thành hai nhóm: nhóm 1 được nuôi cấy trong môi trường phủ dầu Ovoil (616 noãn), nhóm 2 phủ dầu LiteOil (621 noãn). Thể tích dầu phủ sử dụng là 6 ml/đĩa có đường kính 60mm chứa 10 vi giọt.
Kết quả cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ thụ tinh (75,5% và 72,1%), tỷ lệ tạo phôi ngày 2 (65,2% và 64,7%), tỷ lệ tạo phôi ngày 3 (70.9% và 70.5%) giữa hai nhóm. Chất lượng phôi, tỷ lệ thai và tỷ lệ trẻ sinh sống cũng không có sự khác biệt (tỷ lệ thai 38,5% và 33,3%; tỷ lệ trẻ sinh sống: 26,9% và 26,2% lần lượt cho nhóm 1 và 2).
Như vậy, nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt về khả năng phát triển và làm tổ của phôi khi sử dụng dầu khoáng (LiteOil®, LifeGlobal) hay dầu paraffin (Ovoil ™, Vitrolife) mặc dù hai loại dầu này có những khác biệt về thành phần hóa học, nhiệt độ và cách thức lưu trữ.
CVPH - Nguyễn Thị Ngọc Huệ - IVFMD Phú Nhuận
Nguồn: Labied Soraya và cs, (2018). Comparison between paraffin and mineral oil covering on early human embryo culture: a prospective randomized study, Systems Biology in Reproductive Medicine. DOI: 10.1080/19396368.2018.1492645
Labied và cộng sự đã tiến hành so sánh tiềm năng phát triển đến giai đoạn phôi ngày 3 và tỉ lệ trẻ sinh sống giữa môi trường được phủ bằng dầu paraffin (Ovoil ™, Vitrolife) và dầu khoáng (LiteOil®, LifeGlobal) từ tháng 8/2014 đến tháng 7/2015 tại trung tâm hỗ trợ sinh sản Đại học Liège (CHR, Citadelle). Nghiên cứu được thực hiện trên 101 chu kì ICSI với 1.237 noãn MII được chia thành hai nhóm: nhóm 1 được nuôi cấy trong môi trường phủ dầu Ovoil (616 noãn), nhóm 2 phủ dầu LiteOil (621 noãn). Thể tích dầu phủ sử dụng là 6 ml/đĩa có đường kính 60mm chứa 10 vi giọt.
Kết quả cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ thụ tinh (75,5% và 72,1%), tỷ lệ tạo phôi ngày 2 (65,2% và 64,7%), tỷ lệ tạo phôi ngày 3 (70.9% và 70.5%) giữa hai nhóm. Chất lượng phôi, tỷ lệ thai và tỷ lệ trẻ sinh sống cũng không có sự khác biệt (tỷ lệ thai 38,5% và 33,3%; tỷ lệ trẻ sinh sống: 26,9% và 26,2% lần lượt cho nhóm 1 và 2).
Như vậy, nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt về khả năng phát triển và làm tổ của phôi khi sử dụng dầu khoáng (LiteOil®, LifeGlobal) hay dầu paraffin (Ovoil ™, Vitrolife) mặc dù hai loại dầu này có những khác biệt về thành phần hóa học, nhiệt độ và cách thức lưu trữ.
CVPH - Nguyễn Thị Ngọc Huệ - IVFMD Phú Nhuận
Nguồn: Labied Soraya và cs, (2018). Comparison between paraffin and mineral oil covering on early human embryo culture: a prospective randomized study, Systems Biology in Reproductive Medicine. DOI: 10.1080/19396368.2018.1492645
Các tin khác cùng chuyên mục:
Sự khác biệt về mức độ lo âu, trầm cảm và biểu hiện các dấu ấn sinh học căng thẳng ở phụ nữ mang thai sau khi thụ tinh trong ống nghiệm so với mang thai tự nhiên: Một nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu - Ngày đăng: 04-09-2019
Mối tương quan giữa phôi phát triển chậm và kết cục điều trị của bệnh nhân - Ngày đăng: 04-09-2019
Đánh giá thai chậm tăng trưởng chọn lọc khởi phát sớm và muộn trên thai kỳ song thai một bánh nhau - Ngày đăng: 04-09-2019
Wifi và khả năng sinh sản của nam giới - Ngày đăng: 04-09-2019
Béo phì ở phụ nữ ảnh hưởng tiêu cực đến tỉ lệ trẻ sinh sống sau IVF: nghiên cứu tổng quan và phân tích gộp - Ngày đăng: 04-09-2019
Xác định thông số động học và sự phát triển của phôi tiền làm tổ tạo thành từ tinh trùng trích xuất từ tinh hoàn, mào tinh và tinh trùng xuất tinh bằng hệ thống time-lapse - Ngày đăng: 31-08-2019
Liệu rằng chất lượng phôi ngày 3 có thể tiên đoán được kết cục điều trị sau khi chuyển phôi ngày 5 của nhóm bệnh nhân tiên lượng tốt? - Ngày đăng: 31-08-2019
Một chứng cứ về thất bại phân chia trong noãn có chứa mạng lưới nội chất trơn - Ngày đăng: 31-08-2019
Chỉ số phân mảnh DNA tinh trùng không liên quan đến tỉ lệ phôi nang nguyên bội trong các chu kì cho noãn - Ngày đăng: 31-08-2019
ICSI không hiệu quả hơn so với IVF cổ điển ở các nhóm đáp ứng buồng trứng khác nhau - Ngày đăng: 28-08-2019
Stress tại nơi làm việc: kết quả từ cuộc khảo sát stress của các chuyên gia phòng thí nghiệm hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 28-08-2019
Lợi ích và thách thức của việc sử dụng trí tuệ nhân tạo trong các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 28-08-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK