Tin tức
on Saturday 30-12-2017 10:11am
Danh mục: Tin quốc tế
Lựa chọn phôi tốt nhất để chuyển là một thách thức lớn trong thụ tinh trong ống nghiệm. Phôi được lựa chọn dựa trên quan sát hình thái tại một thời điểm nhất định nên không xác định được những sự biến đổi của tế bào và động học phát triển của phôi thai. Hệ thống time-lapse được xem như công cụ đầy hứa hẹn để lựa chọn phôi, cho phép quan sát những biến đổi động học từ lúc thụ tinh đến lúc hình thành phôi đã đưa ra một hướng mới trong đánh giá phôi. Những phôi có hình thái tốt nhất vẫn có thể mang bất thường nhiễm sắc thể. Ở những bệnh nhân có tiên lượng tốt, tỉ lệ lệch bội phôi nang lên đến 44,9% (Yang Z và cs, 2012), đây là nguyên nhân chính gây thất bại làm tổ, sẩy thai sớm và ảnh hưởng đến tỉ lệ trẻ sinh sống trên những bệnh nhân thực hiện hỗ trợ sinh sản.
Một nghiên cứu tại trung tâm thụ tinh trong ống nghiệm Falik, Abu Dhabi, đã sử dụng hệ thống time-lapse như một đánh giá không xâm lấn để phân tích các thông số động học nhằm xác định phôi lệch bội. Nghiên cứu hồi cứu thực hiện từ tháng 5/2013 đến tháng 5/2014 đánh giá trên các thông số động học như thời gian xuất hiện thể cực thứ 2 (tPB2), thời gian xuất hiện tiền nhân (tPNa), thời gian biến mất tiền nhân (tPNf), thời gian phân chia tế bào (t2, t3, t4, t5), chiều dài chu kì tế bào (CC2, CC3), thời gian phân chia từ 2 đến 4 tế bào (S2= t2-t4). Tổng cộng 1360 phôi được thu nhận từ 120 chu kỳ chọc hút noãn.
Kết quả so sánh giữa hệ thống time-lapse và chẩn đoán di truyền tiền làm tổ bằng kĩ thuật CGH microarray cho thấy:
- tPNf và t2 của phôi bình thường thấp hơn nhiều so với phôi bất thường (P< 0,05)
- t5, CC2, CC3, t5-t2 của phôi bình thường cao hơn phôi bất thường (P<0,05)
Như vậy, theo nghiên cứu này, time-lapse có thể đóng vai trò quan trọng trong dự đoán phôi lệch bội dựa vào sự khác biệt động học và giúp cải thiện kết quả lâm sàng.
Lê Thị Bích Phượng – Chuyên viên Phôi học
Nguồn: Morphokinetic analysis of cleavage stage embryos and its relationship to aneuploidy in a retrospective time-lapse imaging study. J Assist Reprod Genet (2015) 32:69–75.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Trẻ sẽ có nguy cơ giảm chiều cao nếu uống sữa không phải sữa bò - Ngày đăng: 30-12-2017
Sinh non làm tăng nguy cơ suy tim - Ngày đăng: 30-12-2017
Cho con bú mẹ có thể làm giảm bớt đau mạn tính sau mổ lấy thai - Ngày đăng: 30-12-2017
Tránh nước ép trái cây cho tới 1 tuổi – khuyến cáo từ AAP - Ngày đăng: 30-12-2017
Cân nặng lúc sinh là yếu tố nguy cơ cho bệnh lý gan nhiễm mỡ ở trẻ em - Ngày đăng: 30-12-2017
Phun khí dung bằng nước muối ưu trương có hiệu quả hơn so với nước muối đẳng trương trong viêm tiểu phế quản? - Ngày đăng: 08-02-2018
Tai biến sản khoa của lạc nội mạc tử cung - Ngày đăng: 02-01-2018
Dự đoán khả năng sinh sống đối với trữ lạnh noãn: một công cụ tư vấn cho bác sĩ điều trị và bệnh nhân - Ngày đăng: 23-12-2017
Tổng quan hệ thống và phân tích gộp bất tương xứng cân nặng thai nhi và tử vong chu sinh trên thai kỳ song thai - Ngày đăng: 23-12-2017
Mối liên quan giữa cấu trúc sợi mảnh trong khoang phôi với sự phân mảnh của phôi giai đoạn phân chia trong quá trình quan sát phôi liên tục - Ngày đăng: 21-12-2017
Phân chia không đồng đều giai đoạn sớm của phôi tiền làm tổ: Đặc điểm bệnh nhân và kết cục thai kỳ - Ngày đăng: 21-12-2017
Lợi ích bảo vệ thần kinh cho trẻ sinh non của magnesium sulphate trước sinh - Ngày đăng: 20-12-2017
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK