Tin tức
on Wednesday 20-12-2017 9:53am
Danh mục: Tin quốc tế
Trẻ sinh non có nguy cơ tử vong cao trong những tuần đầu sau sinh. Những trẻ sống sót qua thời gian này lại có nguy cơ bại não cao hơn so với những trẻ sinh đủ tháng. Mối liên quan giữa sử dụng magnesium sulphate trước sinh và giảm tỉ lệ bại não đã được phát hiện từ những nghiên cứu quan sát vào giữa thập niên 1990. Nhiều thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên đã được tiến hành sau đó, và tổng quan Cochrane năm 2009 đã cho thấy nguy cơ tương đối của bại não giảm 32% ở những trẻ có mẹ sử dụng magnesium sulphate trước sinh so với nhóm chứng. Tuy nhiên, vẫn chưa có khuyến cáo chính xác về liệu trình sử dụng magnesium sulphate, liều phù hợp, có nên dùng liều duy trì hay không, tuổi thai lý tưởng cũng như còn nhiều câu hỏi khác xung quanh việc sử dụng magnesium sulphate để đạt lợi ích tốt nhất.
Một phân tích gộp gần đây đăng trên tạp chí PLOS Medicine vào tháng 10 năm 2017 đã đánh giá hiệu quả của việc sử dụng magnesium sulphate trước sinh ở những phụ nữ có nguy cơ sinh non, so với nhóm không được sử dụng, trên kết cục ở mẹ và trẻ, bao gồm cả tỉ lệ sống không bị bại não. Điểm khác biệt của phân tích gộp này so với các phân tích gộp trước đó là nó còn đánh giá hiệu quả của magnesium sulphate tuỳ theo đặc điểm của từng cá thể và tiến trình điều trị, bao gồm:
Lý do thai phụ được đánh giá là có nguy cơ sinh non: chuyển dạ sinh non, tăng huyết áp thai kỳ, xuất huyết trước sinh, rỉ ối hoặc vỡ ối
Mục đích chính sử dụng magnesium sulphate: bảo vệ não thai nhi, tiền sản giật, giảm co tử cung
- Số thai: đơn thai hoặc đa thai
- Tuổi thai sử dụng
- Thời gian từ lúc sử dụng đến lúc sinh
- Loại, đường sử dụng, liều dự kiến và thực tế sử dụng
- Liều duy trì dự kiến và thực tế
- Liều lặp lại dự kiến và thực tế
Các thử nghiệm được nhận vào phân tích gộp nếu (1) thực hiện phân bố ngẫu nhiên những phụ nữ có nguy cơ sinh non dưới 37 tuần vào nhóm sử dụng magnesium sulphate hoặc nhóm chứng, (2) báo cáo về kết cục thần kinh của trẻ. Kết cục chính là kết cục kết hợp (tử vong hoặc bại não) ở trẻ và kết cục xấu ở mẹ liên quan đến điều trị. Có 5 nghiên cứu được gộp vào phân tích với 5493 thai phụ và 6131 trẻ.
Nhìn chung, không có hiệu quả rõ ràng của magnesium sulphate trên kết cục sơ sinh chính kết hợp (tử vong hoặc bại não) so với nhóm chứng (nguy cơ tương đối RR 0,94; KTC 95% 0,85-1,05; 6131 trẻ, 5 nghiên cứu). Tuy nhiên, khi phân tích 4 nghiên cứu trong đó mục đích sử dụng magnesium sulphate là để bảo vệ não thai nhi, thì nguy cơ kết hợp (tử vong hoặc bại não) giảm có ý nghĩa so với nhóm không điều trị (RR 0,86; KTC 95% 0,75-0,99; 4448 trẻ; 4 nghiên cứu). Số ca cần điều trị là 41 phụ nữ để phòng ngừa tử vong hoặc bại não cho 1 trẻ. Không có khác biệt về kết cục xấu nào cho mẹ khi sử dụng magnesium sulphate (2 nghiên cứu) so với nhóm chứng.
Khi phân tích từng biến chứng riêng lẻ ở trẻ sơ sinh, phân tích gộp cho thấy magnesium sulphate không có hiệu quả đối với tỉ lệ tử vong chung (RR 1,03; KTC 95% 0,91-1,17; 6131 trẻ, 5 nghiên cứu) hoặc tỉ lệ tử vong trong 4 nghiên cứu có mục đích sử dụng magnesium sulphate là để bảo vệ não thai nhi (RR 0,95; KTC 95% 0,8-1,13; 4448 trẻ, 4 nghiên cứu). Tuy nhiên, đối với tỉ lệ bại não ở những trẻ sống sót, điều trị với magnesium sulphate có tác động bảo vệ mạnh trong cả hai phân tích (phân tích chung 5 nghiên cứu, và phân tích 4 nghiên cứu dùng với mục đích bảo vệ não). Số ca cần điều trị trong 2 phân tích trên lần lượt là 46 và 42 để giảm 1 trẻ bị bại não. Không có khác biệt có ý nghĩa thống kê nào về các kết cục phụ khác giữa hai nhóm sử dụng và không sử dụng.
Hiệu quả điều trị hầu như không thay đổi khi phân nhóm theo lý do thai phụ có nguy cơ sinh non, tuổi thai sử dụng magnesium sulphate, tổng liều sử dụng và có dùng liều duy trì hay không. Hạn chế của phân tích gộp này là không phải tất cả các nghiên cứu đều cung cấp đầy đủ dữ liệu về từng loại biến cố. Một số biến cố được gộp chung để phân tích do số trường hợp xảy ra quá ít, điều này khiến cho năng lực phát hiện sự khác biệt bị hạn chế.
Mặc dù vậy, kết quả của phân tích gộp này vẫn cho thấy sử dụng magnesium sulphate trước sinh với mục đích bảo vệ não có thể giúp phòng ngừa bại não và giảm nguy cơ kết hợp (tử vong hoặc bại não) cho trẻ. Lợi ích này được thể hiện bất kể lý do đặt thai phụ vào nguy cơ sinh non, với tác động tương tự ở các tuổi thai khác nhau và với các phác đồ điều trị khác nhau. Phương thức điều trị với magnesium sulphate này tương đối rẻ tiền, dễ áp dụng, và rất tiềm năng trong việc cải thiện sức khoẻ cho trẻ sinh non tháng. Liều được khuyến cáo là liều thấp nhất có hiệu quả 4g có thể kèm hoặc không kèm liều duy trì 1g/giờ.
BS Nguyễn Khánh Linh
Nguồn: Assessing the neuroprotective benefits for babies of antenatal magnesium sulphate: An individual participant data meta-analysis.
PLOS Medicine | https://doi.org/10.1371/journal.pmed.1002398.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Sử dụng Misoprostol đơn thuần theo khuyến cáo FIGO 2017 - Ngày đăng: 02-01-2018
Cặn ối – kênh cổ tử cung hình phễu và nguy cơ sinh non - Ngày đăng: 02-01-2018
Relaxin huyết thanh và chiều dài kênh cổ tử cung trong dự đoán sinh non tam cá nguyệt 2 và 3 của thai kỳ - Ngày đăng: 08-12-2017
Khảo sát đo góc tử cung – cổ tử cung giúp cải thiện khả năng tiên đoán thất bại của phương pháp khâu cổ tử cung - Ngày đăng: 06-12-2017
Thời điểm nào là thích hợp tái khám sau sanh kết hợp với sử dụng biện pháp tránh thai tác dụng kéo dài? - Ngày đăng: 04-12-2017
Sử dụng thuốc kháng virus HIV có kết hợp với thành phần ức chế protease ở những phụ nữ có HIV dương tính không làm tăng nguy cơ sinh non - Ngày đăng: 04-12-2017
Tỷ lệ sinh non ở phụ nữ có tân sinh trong biểu mô cổ tử cung nhóm 1 (CIN 1) - Ngày đăng: 01-12-2017
Mổ lấy thai ở giai đoạn 2 chuyển dạ là yếu tố tăng nguy cơ sinh non ở thai kỳ tiếp theo - Ngày đăng: 01-12-2017
Thai chậm tăng trưởng chọn lọc trên thai kỳ song thai một bánh nhau - Ngày đăng: 01-12-2017
Rối loạn giấc ngủ trong thai kỳ và nguy cơ sinh non - Ngày đăng: 17-11-2017
Tổng quan hệ thống và phân tích gộp về lạc nội mạc tử cung và biến chứng sản khoa - Ngày đăng: 24-10-2017
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK